DNQTĐ: Lê Văn An và Doãn Nỗ

Lê Văn An - 黎文安 (? - 1437) là công thần khai quốc nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam, người làng Mục Sơn (nay là xã Xuân Bái, Thọ Xuân, Thanh Hóa)

Cuộc đời

Lê Văn An đi theo Lê Lợi từ ngày đầu, từng cùng Lê Lợi dự hội thề Lũng Nhai năm 1416. Trong buổi thề đó, tên ông đứng hàng thứ ba. Khi khởi nghĩa Lam Sơn nổ ra, Lê Lợi cho ông làm thứ thủ vệ kỵ binh quân Thiết đột. Ông theo Lê Lợi đánh nhiều trận lớn nhỏ, lập được nhiều công lao.

Năm 1424, trong trận Khả Lưu, ông xung phong đi đầu hãm trận, đánh lui quân Minh. Năm 1425, khi Lê Lợi cầm quân vây Nghệ An, sai Trần Nguyên Hãn đánh Tân Bình và Thuận Hoá, ông được cử cùng các tướng Lê Ngân, Lê Bôi mang thuyền tiếp ứng, phối hợp với Trần Nguyên Hãn đánh được hai thành. Sau đó, ông được điều ra Nghệ An. Hai tướng Minh là Lý An, Phương Chính bỏ thành, vượt biển ra cứu Trần Trí ở Đông Quan, giao lại thành cho Thái Phúc. Lê Lợi bèn mang quân đánh Tây Đô (Thanh Hoá), để Lê Văn An ở lại vây thành Nghệ An. Một thời gian sau, Thái Phúc phải đầu hàng, giao thành cho quân Lam Sơn. Lê Văn An nhận hàng rồi dẫn quân ra Đông Quan.Lê Lợi sai ông cùng Lê Lý mang 3 vạn quân đến tiếp ứng cho Lê Sát vây đánh Thôi Tụ và Hoàng Phúc là 2 tướng Minh sót lại sau khi Liễu Thăng, Lương Minh, Lý Khánh bị giết. Lê Văn An liên tục đánh bại quân Thôi Tụ, bao vây quân địch ở Xương Giang. Tháng 11 năm 1427, ông cùng các tướng tổng tấn công, bắt và giết toàn bộ quân địch. Đó là trận Xương Giang kết thúc khởi nghĩa Lam Sơn.

Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi vua, Lê Văn An được phong làm nhập nội tư mã, Suy trung Bảo chính công thần, được tham dự triều chính. Năm 1429, khi Lê Thái Tổ sai khắc biển công thần, ông được phong làm Đình hầu. Năm 1432, ông lại được gia phong làm Tán trị hiệp mưu công thần, nhập nội kiểm hiệu đại tư không, Bình chương quân quốc trọng sự.

Tháng 2 năm 1434 đời Lê Thái Tông, ông được cử làm Tư mã Bắc đạo. Có viên trấn quản Lạng Sơn là Hoàng Nguyên Ý vốn là phụ đạo Lạng Sơn thời Minh thuộc, cùng với Hoàng Văn Ngạc, Nguyễn Thế Ninh quy thuận quân Lam Sơn, được Lê Thái Tổ phong làm thượng tướng, vẫn cho giữ Lạng Sơn. Chiến tranh kết thúc, các tướng triều đình được cử lên trấn trị là Lê Lộng, Lê Đồ không khéo vỗ về nên Hoàng Nguyên Ý mang lòng oán giận. Gặp lúc Nguyên Ý vào kinh triều kiến thì con cả Thái Tổ, anh Thái Tông là quận vương Lê Tư Tề có người vợ lẽ, nhân có lỗi bị đuổi đi. Nguyên Ý nhân gặp người vợ lẽ của Tư Tề có bụng thích nên mang giấu về Lạng Sơn. Sau đó Ý cùng Hoàng Văn Ngạc, Nguyễn Thế Ninh khởi binh chống triều đình. Có người gia nô của Ý là Phi Báo bị Ý đánh đòn nên oán chủ, chạy đến chỗ Lê Lộng, Lê Đồ tố cáo rằng Ý đã dấy binh làm phản. Lê Thái Tông liền sai Lê Văn An mang quân đi đánh. Ông mang quân tới nơi thì Ngạc đã bị trấn binh Lạng Sơn giết chết, Nguyên Ý và Thế Ninh bỏ vợ con chạy sang đất nhà Minh. Ông bèn sai lùng bắt thân thuộc, nô tỳ, gia súc của mấy người làm phản cùng trấn binh địa phương hơn 1000 người mang về dâng nộp.

Vua Thái Tông hạ lệnh tha hết dân thường, chỉ có gia thuộc những người làm phản bị sung làm nô tỳ của các quan. Lê Văn An có công được phong làm nhập nội đại tư mã, đô đốc đồng tổng quản Bắc đạo. Tuy nhiên trong cuộc đánh dẹp này, ông bắt bớ tràn lan, thành ra quấy nhiễu kinh động nhân dân, nên bị dư luận khi đó chê trách. Đương thời, Lê Văn An là người hoà nhã, giản dị trong số các võ tướng triều đình, hay lấy lễ tiếp đãi các bậc sĩ đại phu.

Tháng 6 năm 1437, ông mất, được truy tặng chức Tư không, ban tên thuỵ là Trung Hiến. Năm 1484, ông được Lê Thánh Tông truy tặng là Thái phó, Khác quận công.

Con đường

Tại Đà Nẵng: nối đường Nguyễn Văn Huyên với Lương Định Của – quận Cẩm Lệ

Tại Thanh Hoá: nối đường Trần Xuân Soạn với Phan Chu Trinh - TP. Thanh Hoá




Thượng tướng quân Doãn Nỗ - 尹弩 (1393-1439), còn được gọi là Lê Nỗ (黎弩) là một khai quốc công thần thời nhà Lê sơ. Ông là một trong 50 tướng văn, tướng võ, tham gia cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi ngay từ lúc đầu tiên vào năm 1418.

Cuộc đời

Doãn Nỗ có nguồn gốc xuất thân từ một vọng tộc khá lâu đời ở Kẻ Nưa (nay là làng Cổ Định, Tân Ninh, Triệu Sơn, Thanh Hóa). Cha của Doãn Nỗ là Doãn Quyết (1344- 1410) đỗ tam trường, làm Cung hiển đại phu nhà Trần. Doãn Nỗ là con trai thứ hai của gia đình, anh trai ông là Doãn Năng về sau cũng làm quan dưới thời Lê Thái Tổ.

Năm Ất Mùi (1415) quân Minh vây ép tàn sát dân vùng Nông Cống giết hơn 3.000 người, riêng hương Cổ Na (Kẻ Nưa) chỉ còn 18 người chạy thoát, trong đó có hai anh em Doãn Năng, Doãn Nỗ. Sau hội thề Lũng Nhai năm 1416, Doãn Nỗ (Lê Nỗ) tìm về với Lê Lợi, trở thành 50 tướng soái đầu tiên tham gia khởi nghĩa Lam Sơn ngày 7 tháng 2 năm 1418. Năm 1425, Lê Lợi cử ông cùng Trần Nguyên Hãn đem quân nam tiến vào đánh Tân Bình, Thuận Hóa (tức là các tỉnh từ Quảng Bình đến Thừa Thiên-Huế ngày nay), mở rộng địa bàn kháng chiến chống Minh. Ông đã lập được công, giải phóng hai vùng này. Quân Minh phải rút vào thành cố thủ. 

Sau khi kháng chiến chống Minh thắng lợi, ông được ban quốc tính nên còn gọi là Lê Nỗ. Theo bản sao Lam Sơn thực lục của Lê Sát, trong đợt xét công ban thưởng Ngày 20 tháng 2 năm Mậu Thân (1428), Doãn Nỗ được Lê Lợi phong làm Trung lượng đại phu, Tả bổng thánh vệ tướng quân, tước Trí tự. Sau đó, Doãn Nỗ được phong Trụ quốc công thượng tướng quân quân quản đạo Sơn Nam. Doãn Nỗ được ban ấp lộc điền ở Phương Chiểu, huyện Tiên Lữ, trấn Sơn Nam Thượng. 

Đến năm ông mất, là năm Kỷ Mùi (1439), vua Lê Thái Tông thăng cho ông chức Tráng sĩ vệ đồng tri chư quân sự, phong tước Quan phục hầu. Lăng mộ và đền thờ ông hiện đặt tại xã Phương Chiểu, trước thuộc huyện Tiên Lữ (Phù Tiên cũ), nay thuộc thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên.

Con đường

Tại Đà Nẵng: nối đường Núi Thành với Lê Thanh Nghị - quận Hải Châu, mang tên đường Lê Nổ

Tại Hưng Yên: nối đường Chùa Đông với Triệu Quang Phục - TP. Hưng Yên


Thiên Linh

Không có nhận xét nào:

©2015 - 2018 by Thiên Linh. Khi trích dẫn, vui lòng ghi rõ: "©JimmyKyo" hoặc "©ThiênLinh". Được tạo bởi Blogger.