DNQTĐ: Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ

Phùng Khắc Khoan
 - (馮克寬, 1528-1613), tự là Hoằng Phu, hiệu là Nghị Trai, Mai Nham Tử, tục gọi là Trạng Bùng (mặc dù chỉ đỗ Nhị giáp tiến sĩ, tức Hoàng giáp); là quan nhà Lê trung hưng và là nhà thơ Việt Nam. Ông là ông tổ của nghề dệt lượt và trồng bắp của Việt Nam.

Cuộc đời

Phùng Khắc Khoan sinh năm 1528 tại làng Bùng, Phùng Xá, Thạch Thất, Hà Nội. Tương truyền, ông là em cùng mẹ khác cha với Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thuở nhỏ, ông được cha rèn cặp, sau theo học Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tuy nổi tiếng là người có văn tài, kiêm thông cả thuật số, nhưng ông không đi thi và không chịu ra làm quan với triều Mạc.

Đầu đời vua Lê Trung Tông, ông theo Lê Bá Lỵ tham gia công cuộc phù Lê diệt Mạc. Năm Đinh Tỵ (1557), Phùng Khắc Khoan đỗ đầu khoa thi Hương ở Yên Định (Thanh Hóa) lúc 29 tuổi. Thái sư Trịnh Kiểm biết ông là người có mưu lược, có học thức uyên bác cho giữ chức Ký lục ở ngự dinh, trông coi quân dân bốn vệ, và cho tham dự việc cơ mật. 

Từ năm 1558 – 1571, ông vâng mệnh đi các huyện chiêu dụ lưu dân về làm ăn như cũ. Khi về được thăng Cấp sự trung Binh khoa, rồi đổi sang Cấp sự trung bộ Lễ. Vì trái ý vua, ông phải giáng chức ra thành Nam thuộc Nghệ An, ít lâu sau lại được triệu về.

Năm Canh Thìn (1580) đời Lê Thế Tông, bắt đầu mở thi Hội ở Vạn Lại (Thanh Hóa), ông xin dự thi và đỗ Hoàng giáp, được thăng làm Đô cấp sự. Năm 1582, ông xin từ quan về nhà riêng ở Vạn Lại, vua cho. Song đến năm sau (1583), thì vời ông ra làm Hồng lô tự khanh.

Năm 1585, đổi ông sang làm Hữu thị lang bộ Công, rồi cử làm Thừa chính sứ Thanh Hoa (tức Thanh Hóa). Theo bài tựa Ngôn chí thi tập do ông làm năm 1586, thì chức tước của ông lúc bấy giờ là: "Công thần Kiệt tiết Tuyên lực, đặc ân Kim tử vinh lộc đại phu, làm chức Tán trị thừa chánh sứ ty các xứ Thanh Hoa". 

Năm 1592, nhà Lê trung hưng đánh đuổi được nhà Mạc, trở về kinh đô Thăng Long. Năm 1593 Phùng Khắc Khoan được phong chức Kiệt tiết tuyên lực công thần. Năm 1595, được thăng Công bộ Tả thị lang. Năm Đinh Dậu (1597), ông đang làm Tả thị lang bộ Công và đã 69 tuổi, thì được cử làm Chánh sứ sang triều Minh (Trung Quốc). Về nước, ông được thăng làm Tả thị lang bộ Lại, tước Mai Lĩnh hầu.

Năm 1599, vua Lê Kính Tông lên nối ngôi, Phùng Khắc Khoan được thăng làm Thượng thư bộ Công. Năm 1602, thăng ông làm Thượng thư bộ Hộ, tước Mai Quận công. Ít lâu sau ông xin về quê trí sĩ, và nhiệt tình tham gia xây dựng làng xã. Đáng kể là việc ông đã tổ chức đào mương dẫn nước vào các cánh đồng quanh núi Thầy, đưa nước về tưới cho các cánh đồng Phùng Xá và Hoàng Xá.

Phùng Khắc Khoan mất năm Quý Sửu (1613), thọ 85 tuổi, được truy tặng chức Thái phó.

Đóng góp

Các tác phẩm bằng chữ Nôm: Ngư phủ nhập Đào nguyên (Truyện người đánh cá vào suối hoa đào, đã thất lạc), Lâm tuyền vãn (Bài vãn ca cảnh nơi rừng suối, 185 câu lục bát), Chu Dịch quốc âm ca (Sách diễn nghĩa về kinh Dịch, đã thất lạc). Ngoài ra, ông còn để lại một vài bài tựa (viết cho một vài tập thơ), và văn bia. 

Các tác phẩm bằng chữ Hán: Ngôn chí thi tập (Tập thơ nói chí, gồm 7 tập 260 bài thơ được viết trong 70 năm, hiện tại chỉ còn 5 tập), Huấn Đồng thi tập (Tập thơ dạy trẻ, gồm 172 bài vịnh về thiên nhiên để dạy trẻ, chỉ còn 30 bài thơ), Đa thức tập (Tập thơ biết nhiều, cung cấp kiến thức thường thức, chỉ còn 100 bài thơ), Mai Lĩnh sứ hoa thi tập (Tập thơ đi sứ qua cửa Mai Lĩnh), Tây Hồ quan ngư (Xem cá Hồ Tây, vô tình gặp được Mẫu Liễu Hạnh),…

Ngoài ra, trong lần đi sứ Trung Quốc ông đã đem về được giống bắp ngô quý giá cho nhân dân trong nước trồng nên ông được tôn làm ông tổ của nghề trồng bắp ngô của Việt Nam. Ông cũng truyền dạy nghề dệt lược ở quê hương

Con đường

Tại TP. HCM: nối đường Điện Biên Phủ với Nguyễn Thị Minh Khai – quận 1

Tại Đà Nẵng: nối đường Mai Hắc Đế với Nguyễn Văn Siêu – Q. Sơn Trà

Tại Khánh Hoà: nối đường Tản Viên với Lê Hồng Phong - TP. Nha Trang

Tại Nghệ An: nối đường Nguyễn Gia Thiều với Nguyễn Phong Sắc - TP. Vinh

Tại Hà Nội: nối đường Hoà Mã với Trần Nhân Tông – Q. Hai Bà Trưng



---

Nguyễn Dư (阮餘, ?-?), thường được gọi là Nguyễn Dữ (阮與), là một danh sĩ thời Lê sơ, thời nhà Mạc và là tác giả sách Truyền kỳ mạn lục, một tác phẩm truyền kỳ nổi tiếng tại Việt Nam.

Cuộc đời

Nguyễn Dư là người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân nay là xã Phạm Kha, huyện Thanh Miện, Hải Dương. Ông là con trai cả Tiến sĩ Nguyễn Tường Phiêu(*). Chưa rõ Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào. Tương truyền ông là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm và bạn học của Phùng Khắc Khoan, tức là vào khoảng thế kỷ 16. Tuy nhiên mối quan hệ giữa ba người vẫn còn là một ẩn sổ.

Lúc nhỏ Nguyễn Dư chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến (tức Cử nhân), ông làm quan với nhà Mạc, rồi về với nhà Lê làm Tri huyện Thanh Tuyền (nay là Bình Xuyên, Vĩnh Phú); nhưng mới được một năm, vì bất mãn với thời cuộc, lấy cớ nuôi mẹ, xin về ở núi rừng Thanh Hóa. Từ đó trải mấy năm dư, chân không bước đến thị thành. Sau đó, mất tại Thanh Hóa.

(*): Nguyễn Tường Phiêu/Phiên (?-?) đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân năm Hồng Đức 27 (1496) đời Lê Thánh Tông; làm quan đến Thừa chánh sứ. Sau khi mất được tặng chức Thượng thư, phong phúc thần.

Đóng góp

Sáng tác duy nhất của ông là quyển Truyền kỳ mạn lục (Ghi chép tản mạn những truyện kì lạ được lưu truyền). Sách gồm 20 truyện, viết bằng chữ Hán, theo thể loại tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện (trừ truyện 19 Kim hoa thi thoại ký) đều có lời bình của tác giả hoặc của một người có cùng quan điểm của tác giả. Tác phẩm được Hà Thiện Hán, người cùng thời, viết lời Tựa, Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính, Nguyễn Thế Nghi dịch ra chữ Nôm; và đã được Tiến sĩ Vũ Khâm Lân (1702-?), đánh giá là một "thiên cổ kỳ bút".

Con đường

Tại Đà Nẵng: nối đường Nguyễn Đăng Đạo với Nguyễn Hữu Thọ - Q. Cẩm Lệ


Thiên Linh

Không có nhận xét nào:

©2015 - 2018 by Thiên Linh. Khi trích dẫn, vui lòng ghi rõ: "©JimmyKyo" hoặc "©ThiênLinh". Được tạo bởi Blogger.