DNQTĐ: Thái Tổ Lê Lợi

Lê Thái Tổ - 黎太祖 (10/09/1385 – 05/10/1433) tên thật là Lê Lợi (黎利), là một nhà lãnh đạo quân sự, người đã thành lập một đội quân người Việt và lãnh đạo đội quân này chiến đấu chống lại sự chiếm đóng của quân đội nhà Minh (Trung Quốc) từ năm 1418 cho đến lúc đánh đuổi hoàn toàn quân Minh ra khỏi Đại Việt vào năm 1428. Ông cũng thành công với các chiến dịch quân sự đánh dẹp các tù trưởng ở biên giới phía Bắc Đại Việt và quân đội Ai Lao. Ông là Vua của nước Đại Việt từ năm 1428 cho tới năm 1433. Lê Lợi có vai trò đặc biệt quan trọng với Đại Việt trong khoảng thời gian từ năm 1418 tới năm 1433 khi lãnh đạo người dân Đại Việt đánh bại quân đội xâm lược nhà Minh, sau đó xây dựng và tái thiết lại một đất nước điêu tàn khi bị quân đội nhà Minh phá hủy mọi thứ từ trước đó. Ông được coi là vị vua huyền thoại của Đại Việt với tài năng quân sự, khả năng cai trị và lòng nhân ái đối với cả kẻ thù

Cuộc đời

Lê Lợi sinh vào giờ Tý ngày 6 tháng 8 năm Ất Sửu (1385), tức ngày 10 tháng 9 năm 1385 đời Trần, tại làng Chủ Sơn tức làng Thủy Chú, huyện Lôi Dương, quê của mẹ ông. Lê Lợi lúc nhỏ được người anh ruột Lê Học nuôi nấng. Lê Lợi nối đời làm phụ đạo Lam Sơn, lớn lên giữa lúc nước Đại Việt có nhiều biến động. Năm ông 16 tuổi (1400), ngoại thích nhà Trần là Hồ Quý Ly sau nhiều năm nắm quyền đã truất ngôi của Trần Thiếu Đế, lên làm hoàng đế, lấy quốc hiệu là Đại Ngu, lập nên Nhà Hồ. Sau đó quân Minh sang xâm lược, Hồ Quý Ly liên tục thất bại và đến tháng 6 năm 1407 thì bị bắt cùng các con trai là Hồ Nguyên Trừng, Hồ Hán Thương và cháu nội là Hồ Nhuế. Nhà Hồ sụp đổ, người Việt rơi vào 20 năm dưới sự cai trị của nhà Minh.

Năm 1416, Lê Lợi đã cùng 18 người khác tham gia hội thề Lũng Nhai nguyện đánh quân Minh cứu nước. Khi nhà Minh đánh bại hoàn toàn nhà Hồ đã kêu gọi Lê Lợi ra làm quan cho họ nhưng Lê Lợi từ chối. Lê Lợi nhận thấy thế quân Minh còn mạnh, nên đem nhiều tiền của hối lộ cho các chỉ huy nhà Minh là Trương Phụ, Trần Trí, Sơn Thọ,... để khỏi bị nạn, chờ thời cơ. Thổ quan người Việt phục vụ cho nhà Minh là Lương Nhữ Hốt quê ở huyện Cổ Đằng (nay là Hoằng Hóa, Thanh Hóa) biết Lê Lợi có chí lớn, ngầm ghen ghét, bèn báo cho quân Minh. Bị quân Minh bức bách, Lê Lợi quyết định dấy binh khởi nghĩa.

Mùa xuân, ngày mồng 2, tháng Giêng, năm Mậu Tuất 1418, Lê Lợi đã cùng những hào kiệt đồng chí hướng như Phạm Vấn, Lê Văn An, Lê Sát,... tất cả 50 tướng văn và tướng võ (trong đó có 19 người trong hội thề Lũng Nhai, năm 1416), chính thức phất cờ khởi nghĩa (khởi nghĩa Lam Sơn). Ông tự xưng là Bình Định vương, đặt quan chức và liêu thuộc, phát hịch các nơi xa gần cùng tham gia khởi nghĩa, giành lấy chính quyền Đại Việt. Trong thời gian đầu, lực lượng của quân Lam Sơn chỉ có vài ngàn người, lương thực thiếu thốn, thường chỉ thắng được vài trận nhỏ và hay bị quân Minh đánh bại. Hoạt động trong thời này chủ yếu ở vùng núi Thanh Hóa. Có những lúc Lê Lợi và quân Lam Sơn phải trốn chạy. Thời gian từ năm 1418 tới năm 1423, trong 5 năm nghĩa quân Lam Sơn đã có 18 trận đánh với quân Minh.

Ngày 9 tháng 1 âm lịch năm 1418, tướng Nhà Minh là Mã Kỳ dẫn đại quân đánh vào Lam Sơn. Lê Lợi rút quân tới Lạc Thủy, tại đây ông bố trí quân mai phục chờ địch. Khi quân Mã Kỳ tới vào ngày 13 tháng 1, Lê Lợi sai quân mai phục đổ ra đánh; theo Toàn thư: "Lê Thạch cùng các tướng Đinh Bồ, Lê Ngân, Lê Lý... dẫn đầu xông vào trận giặc, chém được hơn 3.000 thủ cấp, thu được hàng ngàn quân tư, khí giới", sau đó nghĩa quân dời về núi Chí Linh. Ba ngày sau, cộng sự người Việt tên là Ái dẫn quân Minh theo lối tắt đánh úp nghĩa quân. Một bộ phận nghĩa quân nhụt chí đành bỏ cuộc, chỉ có Lê Lễ, Lê Vấn, Lê Bí, Lê Xí và Lê Đạp theo Lê Lợi vào ẩn náu ở núi Chí Linh. Nghĩa quân tuyệt lương đến 2-3 tháng

Cuối tháng 1 âm lịch năm 1418, nghĩa quân Lam Sơn bị thua trận ở Mường Một, chạy thoát về Trịnh Cao, quân Minh đuổi theo vây chặt các lối hiểm yếu. Trong tình thế nguy cấp Lê Lai liều mình cứu chúa, đem quân ra khiêu chiến và tự xưng là chúa Lam Sơn. Quân Minh vây đánh và bắt được Lê Lai và một số tướng lĩnh khác. Vì tưởng là Lê Lợi, người Minh đã xử tử Lê Lai một cách tàn ác và lui quân. Nhờ hành động của Lê Lai, Lê Lợi cùng các tướng lĩnh khác được thoát. Năm 1419, tận dụng thời cơ quân Minh lui quân, Lê Lợi tiến hành xây dựng thành lũy, sửa sang chiến cụ và động viên sĩ khí quân đội.

Tháng 10 âm lịch năm 1420, quân Minh tiến đánh nghĩa quân Lam Sơn, Lê Lợi cho quân mai phục ở bến Bổng, đánh thắng và thu hơn 100 con ngựa. Tiếp đến, đánh bại 300 quân Minh ở xứ Bồ Mộng, 1000 quân ở Bồ Thị Lang. Tận dụng thời cơ, Lê Lợi tiến quân đóng ở trại Ba Lẫm thuộc Lỗi Giang, quân Minh không dám khiêu chiến. Tướng Nhà Minh lui binh Quan Du để phòng vệ thành Tây Đô, giữ chặt lũy không ra. Lê Lợi sai tướng Lam Sơn là Lê Hào, Lê Sát đánh trại Quan Du, chém hơn nghìn người. Chiến thắng Thị Lang là trận đánh mang tính bước ngoặt với nghĩa quân Lam Sơn, trước nay nghĩa quân dù thắng cũng phải rút chạy, nay đánh bại 10 vạn quân địch, thừa thế đuổi theo, lập chiến tuyến ở Lỗi Giang, dòm ngó Tây Đô. 

Ngày 20 tháng 11 năm 1421, tướng Nhà Minh là Trần Trí thu quân các vệ Giao Châu cùng ngụy binh, hơn 10 vạn quân tiến tới chiến tuyễn Lỗi Giang. Lê Lợi chia quân tập kích doanh trại quân Minh vào ban đêm, phá 4 trại, chém hơn 1000 người. Trần Trí không nản, đem quân phá núi, mở đường tiến đánh nghĩa quân, Lê Lợi sai quân phục ở đèo Ống, đánh tan quân Trần Trí, khiến Trí tháo chạy. Vừa lúc ấy quân Ai Lao đem 3 vạn quân, 100 thớt voi đột xuất đến doanh trại nghĩa quân Lam Sơn, phao tin là hợp sức với nghĩa quân đánh quân Minh. Lê Lợi chấp thuận, quân Ai Lao nửa đêm đánh úp nghĩa quân. Lê Lợi đích thân đốc chiến, đánh tan quân Ai Lao, chém 1 vạn người, bắt 14 con voi, truy kích 4 ngày đêm đến tận sào huyệt quân Ai Lao rồi dẫn quân trở về đóng ở Sách Thủy. 

Tháng 12 âm lịch năm 1422, quân Minh và quân Ai Lao tiến đánh nghĩa quân ở Trại Quan Du, do bị đánh cả hai mặt, nghĩa quân nhiều người chết và bị thương. Lê Lợi rút quân về Sách Khôi.  Lê Lĩnh, Phạm Vấn, Lê Hào, Lê Triện xông lên trước, chém tướng Nhà Minh là Phùng Quý và hơn 1000 người, bắt được 100 con ngựa. Quân Minh đại bại, Mã Kỳ, Trần Trí thoát thân chạy về Đông Quan; quân Ai Lao tan vỡ. Sau trận Sách Khôi, Lê Lợi thu quân về núi Chí Linh, nghĩa quân thiếu lương 2 tháng, phải đẵn măng rừng, rau và củ để ăn, nhiều người bỏ trốn. Lê Lợi bắt chém viên tướng trốn đi tên Khanh, từ đó việc quân mới tạm an ổn. Do chinh chiến nhiều ngày, tướng sĩ mệt mỏi nên Lê Lợi chấp thuận hòa hoãn với quân Minh, sai Lê Vận, Lê Trăn đi giảng hòa, và được quân Minh chấp thuận.

Ngày 14 tháng 4 âm lịch năm 1423, Lê Lợi lui quân về Lam Sơn. Quân Minh đem nhiều cá, muối, thóc giống và nông cụ tặng nghĩa quân, Lê Lợi tặng vàng, bạc đáp lễ, nhưng vẫn bí mật cảnh giác. Quân Minh cho rằng không khuất phục được Lê Lợi, bèn bắt giam nhóm sứ giả Lê Trăn không cho về. Lê Lợi đình chỉ việc giảng hòa, tướng sĩ Lam Sơn đều căm giận người Minh và thề chiến đấu tới cùng. Ngày 20 tháng 9 âm lịch năm 1424, nghe lời Nguyễn Chích, Lê Lợi tiến quân vào Nghệ An. Ngày 20 tháng 9 âm lịch năm 1424, Lê Lợi chia quân đánh úp thành Đa Căng, phá được thành này, quân Minh bị giết và chết đuối hơn 1000 người. Nhân trời sắp tối, Lê Lợi sai phục binh trong rừng đón đánh Trần Trí, Lý An, Phương Chính, quân Minh tan vỡ, Đô ty Trần Trung bị chém, mất 2000 người, 100 con ngựa. Ngày sau, nghĩa quân đến Trang Trịnh Sơn, châu Trà Lân, đánh bại Sư Hựu, chém thiên hộ Trường Bản và hơn 1000 người. Lê Lợi dẫn quân đến sách Mộc, Trần Trí đuổi theo nhưng không dám tiến sâu, lui về giữ thành Nghệ An, đưa trả Lê Trăn cầu hòa.

Tháng 11 âm lịch năm 1424, Lê Lợi sai người chiêu dụ Cầm Bành. Cầm Bành đã đầu hàng, châu Trà Lân được giải phóng. Lê Lợi tiến quân tới đánh thành Nghệ An sau đó. Tháng 5 năm 1425, Lê Lợi lại sai Đinh Lễ đem quân ra đánh Diễn Châu, quân Minh thua chạy về Tây Đô (Thanh Hóa). Tại thành Tây Đô, Tướng Minh là Nhậm Năng ra đánh bị phá tan. Sau đó Lê Lợi lại sai Lê Ngân, Lê Văn An mang thủy quân tiếp ứng cho Trần Nguyên Hãn chiếm đất Tân Bình, Thuận Hóa. Quân Minh phải rút vào cố thủ nốt. Như vậy đến cuối năm 1425, Lê Lợi làm chủ toàn bộ đất đai từ Thanh Hóa trở vào, các thành của đối phương đều bị bao vây.

Tháng 8 năm 1426, Lê Lợi chia quân cho các tướng làm 3 cánh Bắc tiến. Phạm Văn Xảo, Đỗ Bí, Trịnh Khả, Lý Triện ra phía Tây Bắc, Lưu Nhân Chú, Bùi Bị ra phía Đông Bắc; Đinh Lễ, Nguyễn Xí ra đánh Đông Quan. Phạm Văn Xảo phá tan viện binh Vân Nam. Lê Lợi giao cho Lê Văn An, Lê Văn Linh vây thành Nghệ An, còn mình kéo đại quân ra Bắc. Đinh Lễ, Nguyễn Xí đem quân đến đặt phục binh ở Tốt Động, Chúc Động. Nhân biết Vương Thông định chia dường đánh úp Lý Triện, hai tướng bèn tương kế tựu kế dụ Thông vào ổ mai phục Tốt Động. Quân Vương Thông thua to, Trần Hiệp, Lý Lượng và 5 vạn quân bị giết, 1 vạn quân bị bắt sống. Thông cùng các tướng chạy về cố thủ ở Đông Quan.

Cánh quân của Đinh Lễ, Lý Triện sau trận Tốt Động - Chúc Động liền bao vây thành Đông Quan, báo tin về hành dinh Lê Lợi đóng ở Lỗi Giang Thanh Hóa. Được tin, Lê Lợi liền đem đại quân và 20 con voi, theo đường thủy tiến gấp ra Bắc, đóng dinh ở sông Lũng Giang (sông Đáy). Sau đó Lê Lợi tiến đánh một trận lớn phá tiền đồn quân Minh bảo vệ thành Đông Quan, khiến cho quân Minh phải chạy hoàn toàn vào Đông Quan đắp lũy cố thủ. Lê Lợi nhân cơ hội quân Minh bị vây ở Đông Quan, liền chia các lộ trấn ở Đông Đô thành bốn đạo, xếp đặt lại tổ chức, kén chọn người tài, trị tội các ngụy quan người Việt phục vụ cho nhà Minh. Lê Lợi vì đại cuộc, muốn quân Minh nhanh chóng rút về nên đồng ý. Ông sai người tìm được Trần Cảo bèn lập làm vua, còn ông tự xưng là Vệ quốc công.  Tướng Minh là Thái Phúc nộp thành Nghệ An xin hàng. Lê Lợi sai Thượng thư bộ Lại là Nguyễn Trãi viết thư dụ đối phương ở các thành khác ra hàng. Nhân lúc quân Lam Sơn vây thành có vẻ lơi lỏng, quân Minh ở Đông Quan ra đánh úp. Lê Triện tử trận ở Từ Liêm, Đinh Lễ và Nguyễn Xí bị bắt ở Thanh Trì. Sau Đinh Lễ bị giết, Nguyễn Xí trốn thoát được.

Biết cánh Liễu Thăng là quân chủ lực, ông sai Lê Sát, Lê Nhân Chú, Lê Lãnh, Đinh Liệt, Lê Thụ mang quân phục ở Chi Lăng, lại sai Lê Văn An, Lê Lý mang quân tiếp ứng. Đối với cánh quân Mộc Thạnh, ông biết Thạnh là viên tướng lão luyện, sẽ ngồi chờ thắng bại của Liễu Thăng mới hành động nên hạ lệnh cho Phạm Văn Xảo và Trịnh Khả cố thủ không đánh. Tướng trấn giữ biên giới là Trần Lựu liên tục giả cách thua chạy từ Ải Nam Quan về Ải Lưu rồi lại lui về Chi Lăng. Ngày 18 tháng 9 âm lịch, Thăng đuổi đến Chi Lăng. Trần Lựu lại thua, Thăng đắc thắng mang 100 quân kị đi trước. Ngày 20, Thăng bị phục binh của Lưu Nhân Chú, Lê Sát, Trần Lựu đổ ra chém chết. Các tướng thừa dịp xông lên đánh quân Minh, giết hơn 1 vạn quân, chém được Lương Minh, Lý Khánh tự vẫn.  Ngày 22 tháng 11 năm Đinh Mùi, tức 10 tháng 12 năm 1427, Lê Lợi cùng các tướng Nhà Minh: Tổng binh Thành Sơn hầu Vương Thông, Tham tướng Mã Anh, Thái giám Sơn Thọ, Mã Kỳ, Vinh Xương hầu Trần Trí, An Bình hầu Lý An, Đô ty Phương Chính, Chưởng đô ty sự Trần Tuyền, Trần Hựu, Giám sát Ngự sử Chu Kỳ Hậu, Cấp sự trung Quách Vĩnh Thanh, Hữu bố chính sứ Dặc Khiêm, Tả hữu tham chính là Hồng Bỉnh Lương, Lục Trinh và Lục Quảng Bình, Án sát sứ Dương Thời Tập và Thiêm sự Quách Đoan làm hội thề ở cửa Nam thành Đông Đô. 

Ngày 29 tháng 11 âm lịch năm 1427, Lê Lợi sai Lê Thiếu Dĩnh, Lê Cảnh Quang đem tờ biểu cầu phong của Trần Cảo, cùng các vật phẩm theo viên chỉ huy do Vương Thông sai, sang triều Minh. Tháng 12 âm lịch năm 1427, Lê Lợi ra lệnh Cánh đường thủy, cấp 500 chiếc thuyền, cho Phương Chính, Mã Kỳ lãnh nhận. Cánh đường bộ, cấp lương thảo, cho Sơn Thọ, Hoàng Phúc lãnh nhận. Còn hơn 2 vạn người bị bắt hoặc đầu hàng và 2 vạn con ngựa thì do Mã Anh lãnh nhận. Chinh man tướng quân Trần Tuấn đem quân trấn thủ đi theo. Tất cả đều tới dinh Bồ Đề lạy tạ mà về. Ngày 12 tháng 12 âm lịch năm 1427, Phương Chính, Mã Kỳ tới dinh Bồ Đề cáo biệt Lê Lợi, ở lại suốt một buổi chiều, Lê Lợi sai sắm trâu ngựa, trướng vẽ và lễ phẩm hậu tặng. Đến ngày 17, tướng Minh là Vương Thông dẫn quân bộ đi sau. Lê Lợi đã nói chuyện với Vương Thông suốt đêm trước khi từ biệt nhau. Ông còn sai đưa trâu rượu, cờ thêu, trướng vẽ cùng các lễ vật tiễn Vương Thông rất hậu. Quân thủy, bộ của ba thành Tây Đô, Cổ Lộng, Chí Linh cùng lục tục rút tiếp. Từ đây, chiến tranh chấm dứt với thắng lợi hoàn toàn của nghĩa quân Lam Sơn. Lê Lợi sai Nguyễn Trãi thảo bài Bình Ngô đại cáo để bá cáo cho thiên hạ biết về việc quân Minh đã giảng hòa, rút quân về nước

Ngày 15 tháng 4 âm lịch năm 1428, Lê Lợi từ điện Tranh ở Bồ Đề vào thành Đông Quan, đại xá thiên hạ, đổi niên hiệu là Thuận Thiên, đặt quốc hiệu là Đại Việt, lấy Đông Kinh làm thủ đô, xưng là Thuận Thiên Thừa Vận Duệ Văn Anh Vũ Đại Vương, hiệu là Lam Sơn động chủ, sử gọi là Thái Tổ Cao Hoàng đế, dựng lên triều đại quân chủ gọi là nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam.

Hành chính: Năm 1427, Lê Lợi chia các lộ, trấn làm 4 đạo, đặt liêu thuộc văn võ ở trong ở ngoài; đặt chức tướng quân, các thị vệ và chức tuần kiểm ở cửa biển, còn vệ quân các lộ, các phủ thì bổ quan đại thần làm kiểm tri, tổng tri và đồng tri để chỉ huy và thi hành mệnh lệnh, quân ở 4 đạo thuộc về các quan này; ở nơi trấn thủ thì có chức quan sát và phòng ngự. Năm 1428, chia trong nước làm năm đạo: Đông, Tây, Nam, Bắc và Hải Tây. Mỗi đạo đặt một vệ quân, mỗi vệ đặt chức Tổng quản. Ông còn đặt chức Hành khiển ở năm đạo, chia giữ việc sổ sách và từ tụng của quân dân, đứng đầu là Hành khiển, thứ đến là các chức Tham tri, Đồng tri, Chủ bạ, Đạo thuộc. 

Luật pháp: Tháng 1 âm lịch năm 1428, thiên hạ thái bình, vua Lê Thái Tổ sai các quan Tư không, Tư đồ, Tư mã, Thiếu úy, Hành khiển bàn việc soạn các điều luật dân sự và quân sự. Thái Tổ cho đặt ra bộ luật mới theo như hình luật của nhà Đường; đặt ngũ hình là: xuy, trượng, đồ, lưu và tử. Đặt lệ bát nghị: nghị thân, nghị cố, nghị hiền, nghị năng, nghị công, nghị quí, nghị cần, nghị tân. Năm 1429, Lê Thái Tổ định luật cấm cờ bạc, đánh bạc thì chặt bàn tay 5 phân, đánh cờ thì chặt bàn tay 2 phân. 

Tiền tệ: Đến tháng 4, năm 1428, triều đình cho đúc đồng tiền mới của Đại Việt, gọi là tiền Thuận Thiên. Đến tháng 12, Lê Thái Tổ lại đúc tiền Thuận Thiên thông bảo, tính 50 đồng là 1 tiền. 1429, ông truyền cho các quan trong ngoài bàn phép dùng tiền. 

Khoa cử: Năm 1426, Lê Thái Tổ tiến quân ra Bắc, đóng quân ở dinh Bồ Đề. Ông liền hạ lệnh thi học trò văn học, đầu đề bài thi: Bảng văn dụ thành Đông Quan, lấy đỗ 50 người, sung bổ chức An phủ các lộ bên ngoài và chức Viên ngoại lang ở 6 bộ trong Kinh. Khoa này Đào Công Soạn, người Tiên Lữ, Hưng Yên đỗ đầu. Sau khi giành độc lập năm 1428, Lê Thái Tổ cho mở lại trường Quốc Tử giám để cho con cháu các quan và người thường dân tuấn tú vào học và đặt các nhà học ở các phủ và các lộ. Năm 1429, Lê Thái Tổ hạ chiếu cho quân nhân các lộ và những người ẩn dật ở rừng núi, cùng các quan từ tứ phẩm trở xuống, ai thông kinh sử, thì đến cả sảnh đường để thi, năm ấy thi khoa Minh kinh. Năm 1431, Thái Tổ mở thi Hoành từ. Năm 1433, ông đích thân ra thi văn sách. chưa lấy đỗ Tiến sĩ.

Quân đội: Lê Lợi sau khi lên ngôi lại tổ chức lại quân đội, chia ra làm vệ quân 5 đạo: Đông, Tây, Nam, Bắc và Hải Tây. Mỗi vệ đặt chức Tổng quản. Lại đặt sáu chân ngự tiền và Ngự tiền vũ đội. Lê Lợi đã áp dụng chế độ luân phiên với quân đội, bằng cách chia quân đội thành 5 phiên, 1 phiên lưu lại quân ngũ và 4 phiên cho về làm ruộng. Vào năm 1429, Lê Lợi tổ chức thao diễn quân đội, các sử quan triều Nguyễn gọi lần thao diễn này là thao diễn quân đội một cách vĩ đại, điều động tất cả các vệ quân để tập trận thủy bộ.

Ruộng đất: Tháng 7 âm lịch năm 1426, Lê Lợi cho làm sổ hộ tịch (sổ đinh). Tháng Giêng năm 1428, nhà vua hạ lệnh cho con em các nhà đầu mục và các tướng hiệu đều nên trở về nhận ruộng đất ở quê cha đất tổ, để chấm dứt nạn tranh chiếm ruộng đất. Tháng 4 âm lịch năm 1428, nhà vua ra lệnh trả lại ruộng đất, nhà cửa cho những quân dân bị bắt vào 4 thành Tây Đô, Đông Kinh, Cổ Lộng, Chí Linh đã được bổ vào các quân phụ vào quân Thiết đột. Ngày 25 tháng 11 âm lịch năm 1428, triều đình cho làm sổ ruộng đất, sổ hộ tịch. Triều đình ra chỉ thị cho các phủ, huyện, lộ khám xét các chằm bãi, ruộng đất, mỏ vàng bạc, những sản vật núi rừng trong hạt, các loại thuế cũ, cùng ruộng đất đã sung công các nhà thế gia và những người tuyệt tự, ruộng đất của bọn đào ngũ, ngụy quan. Ngày 22 tháng 12 âm lịch năm 1428, Lê Thái Tổ ra lệnh chỉ cho các quan phủ, huyện, lộ, trấn, xã, sách đối chiếu, khám xét ruộng đất, đầm bãi công tư trong các huyện, xã của lộ mình. Ngày 22 tháng 1 năm 1429, nhà vua ra lệnh cho các đại thần tâu lên về việc cấp đất cho dân chúng, từ quan lại, quân nhân, đàn ông, đàn bà, người già yếu, mồ côi, góa chồng.

Ngoài xây dựng kinh tế, Thái Tổ còn phải đối phó với bạo loạn trong nước. Tháng 11 âm lịch năm 1430, Thổ tù ở châu Thạch Lâm, trấn Thái Nguyên là Bế Khắc Thiệu, Nông Đắc Thái nổi dậy; để đối phó, Lê Lợi tuyển binh ở bãi Bồ Đề. Tháng Giêng năm 1431, sau khi giết Phạm Văn Xảo, Lê Lợi thân chinh đem quân đánh trấn Thái Nguyên. Tháng 2 âm lịch cùng năm, ông đánh chiếm được Lâm Châu, giết Bế Khắc Thiệu và bắt sống Nông Đắc Thái. Tháng giêng năm 1432, Lê Lợi sai con trai cả là Lê Tư Tề và Tư đồ Lê Sát đem quân đánh châu Mường Lễ, do Đèo Cát Hãn thông đồng Phạm Văn Xảo làm loạn, liên kết với nghịch thần Ai Lao là Kha Đốn xâm lấn đất Mang Mỗi. Sau đó đích thân Lê Lợi thân chinh, đánh được Mang Lễ, Kha Đốn bị giết, Đèo Cát Hãn bỏ chạy, Lê Lợi thu Mang Lễ, đổi tên thành châu Phục Lễ

Công thần khai quốc: Lê Lợi đã dành cho người chết thay mình là Lê Lai nhiều ân sủng đặc biệt. Khi Lê Lai vừa chết, Lê Lợi ngầm sai người tìm di hài đem về Lam Sơn mai táng. Năm 1443 ban tặng tước Bình chương quốc quân trọng sự, ban cho túi kim ngư, ấn vàng, tước Huyện Thượng hầu. Năm 1428 truy tặng Lê Thạch làm Trung vũ Đại vương, được thờ ở tẩm miếu hoàng gia. Đối với Lý Triện, Lê Lợi trao cho cha của ông là Lê Ba Lao làm Quan sát sứ, tước Thượng phẩm, cấp 400 mẫu ruộng, con ông là Lý Lăng làm Phòng ngự sứ, tước Phục hầu, đều được đổi sang họ Lê. Khi Đinh Lễ hi sinh trong Khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi cho em ông là Đinh Liệt làm Nhập nội Thiếu úy, tước Á hầu. Tháng 2, năm 1428, Lê Lợi định các hạng công cho các hỏa thủ và quân nhân Thiết đột có công ở Lũng Nhai, chia ra thứ bậc gồm 221 người. Tháng 5 năm 1432, Lê Lợi lại ban biển ngạch công thần cho 93 người, đều được cải sang họ Lê của vua.

Ngày 7 tháng 1 âm lịch năm 1429, Lê Thái Tổ lập con trưởng Lê Tư Tề làm Quận vương, giúp trông coi việc nước, con thứ Nguyên Long làm Hoàng thái tử. Lê Tư Tề mắc chứng điên cuồng, giết bừa các tì thiếp, việc đó không hợp ý vua Thái Tổ. Tháng 8 âm lịch năm đó, con trưởng Lê Tư Tề bị phế giáng làm Quận vương, con thứ Nguyên Long kế thừa tông thống. Ngày 15/7/1431 triều đình nhà Minh vẫn không chịu phong Vương cho Lê Lợi, mà chỉ phong làm quyền cai quản nước An Nam, gọi là quyền thự An Nam quốc sự. 

Lê Thái Tổ ở ngôi được 5 năm thì qua đời vào ngày 22 tháng 8 âm lịch (ngày 7 tháng 9 dương lịch) năm Quý Sửu (1433), hưởng dương 49 tuổi. Vì nhớ công Lê Lai chết thay cho mình ở núi Chí Linh trước kia, ông dặn lại đời sau phải giỗ Lê Lai trước khi giỗ ông một ngày. 

Lê Lợi được an táng tại Vĩnh Lăng, Lam Sơn và được tôn miếu hiệu là Thái Tổ (太祖), thụy hiệu là Thống Thiên Khải Vận Thánh Đức Thần Công Duệ Văn Anh Vũ Khoan Minh Dũng Trí Hoàng Nghĩa Chí Minh Đại Hiếu Cao Hoàng Đế. Đời sau đều gọi là Thái Tổ Cao Hoàng đế hay Cao Hoàng, Cao Đế. Thái tử Lê Nguyên Long 11 tuổi lên nối ngôi, tức hoàng đế Lê Thái Tông

Con đường

Tại Saigon: 
- Nối đường Đồng Khởi với Lê Lai - quận 1
- Nối vòng xoay Hóc Môn với QL. 22 - Hóc Môn
- Nối đường Ngô Quyền với Lê Văn Việt - TP. Thủ Đức

Tại Hà Nội: nối đường Hành Khay với quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục - Q. Hoàn Kiếm

Tại Long Xuyên: nối đường Nguyễn Đăng Sơn với Trần Quốc Toản – phường Mỹ Bình

Tại Đà Nẵng: nối đường Đống Đa với Lê Duẩn - Q. Hải Châu

Tại Bắc Giang: nối đường Cô Bắc với QL. 37 - TP. Bắc Giang

Tại Kiên Giang: nối đường Nguyễn Du với Bạch Đằng - TP. Phú Quốc


Thiên Linh

Không có nhận xét nào:

©2015 - 2018 by Thiên Linh. Khi trích dẫn, vui lòng ghi rõ: "©JimmyKyo" hoặc "©ThiênLinh". Được tạo bởi Blogger.