DNQTĐ: Lê Thánh Tông

Lê Thánh Tông - 黎聖宗 (25/08/1442 – 03/03/1497) là hoàng đế thứ năm của Hoàng triều Lê nước Đại Việt. Ông trị vì từ ngày 26 tháng 6 năm 1460 đến khi qua đời năm 1497, tổng cộng 37 năm, là vị hoàng đế trị vì lâu nhất thời Hậu Lê – giai đoạn Lê sơ trong lịch sử Việt Nam.

Cuộc đời

Ông có tên húy là Lê Tư Thành (黎思誠), là con trai thứ tư của Lê Thái Tông và Ngô Thị Ngọc Dao. Bà sinh Lê Tư Thành vào ngày 20 tháng 7 âm lịch (25 tháng 8 dương lịch) năm Đại Bảo thứ 3 (1442). Năm 1445, Lê Nhân Tông hạ chiếu phong Lê Tư Thành làm Bình Nguyên vương, làm phiên vương vào ở kinh sư, học cùng các vương khác ở Kinh diên. 

Ngày 8 tháng 6 âm lịch (tức 26 tháng 6 dương lịch) năm 1460, Gia vương Lê Tư Thành lên ngôi Hoàng đế ở điện Tường Quang, lấy niên hiệu là Quang Thuận. Ông lấy tên Lê Hạo để dùng trong các văn kiện ngoại giao với Trung Quốc. Vừa lên ngôi, ông ban chiếu đại xá thiên hạ, xử tử tướng cai quản cấm binh là Lê Đắc Ninh vì tiếp tay cho Nghi Dân đảo chính cướp ngôi, đồng thời truy phong Nội quan Đào Biểu tước 1 tư và ban 5 mẫu ruộng công để cúng tế. Ngày 1 tháng 10 âm lịch năm 1460, Lê Thánh Tông thăng quan tước cho các công thần đã tham gia đảo chính Lê Nghi Dân. Ngày 11 tháng 10 âm lịch ông lại ban tặng ruộng đất cho 30 vị công thần. 

Quan chế - Hành chính

Tháng 10/1462, Lê Thánh Tông cho các quan văn, võ ở độ tuổi 65 và các thư lại, giám sinh ở độ tuổi 60 được đệ đơn với Lại bộ để xin trí sĩ.  Ông còn bãi bỏ luật cha truyền con nối cho các gia đình có công – công thần. Tháng 3/1465, Lê Thánh Tông bỏ 6 bộ, đặt ra 6 viện, mỗi viện đều có Thượng thư và Tả, Hữu Thị lang đứng đầu. Tháng 4/1466, vua Lê Thánh Tông lại đổi 6 viện thành 6 bộ như trước năm 1465, mỗi bộ vẫn do Thượng thư và Tả Hữu Thị lang cai quản. Dưới các chức này, Lê Thánh Tông đặt chức Lang trung, Viên ngoại lang, Tư vụ. Thánh Tông cũng lập ra sáu tự để phụ việc cho sáu bộ

Tháng 6/1466, Lê Thánh Tông ban quy chế về màu áo các quan văn võ: quan từ nhất phẩm đến tam phẩm phải mặc áo hồng; quan tứ phẩm và ngũ phẩm thì mặc áo màu lục; các viên chức còn lại đều mặc áo xanh. Tháng 3/1493, vua Lê Thánh Tông đặt lệ về thứ tự đứng chầu của đình thần: đối với các quan cùng phẩm, thì người lớn tuổi và làm việc lâu năm đứng trước, người trẻ và làm việc chưa lâu đứng sau. Tháng 12/1467, ông đặt ra ấn "Thiên Nam Hoàng đế chi bảo". Mùa thu năm 1471, sau khi chinh phục Chiêm Thành, vua Thánh Tông ban bố Hoàng triều quan chế. Thánh Tông cũng tỏ ra rộng rãi trong việc cho phép các quan bị xử phạt, giáng chức hay cách chức có cơ hội lần hai để chuộc lại lỗi lầm. Lê Thánh Tông cũng rất quan tâm cất nhắc người giỏi, giáng chức người bất tài, tham ô. Bên cạnh các khoa thi 3 năm 1 lần, ông áp dụng chế độ tiến cử và bảo cử để chiêu mộ quan viên tài đức

Tháng 9/1471, Lê Thánh Tông ban bố quy định về việc phong tước cho tôn thất, quan lại: hoàng tử hoặc con cả của hoàng tử được lãnh tước Vương. Lê Thánh Tông còn đặt lệ cho các công thần được phong tước quốc công, quận công, hầu, bá. Những người không có đức độ, công lao rõ ràng đối với triều đại, thì không được xem như công thần và không được phong các tước đó. Đối với người mang tước quốc công, quận công thì lấy một chữ trong tên phủ, huyện để đặt hiệu 

Năm 1469, Lê Thánh Tông đổi phủ Trung đô làm phủ Phụng Thiên, quản lĩnh 2 huyện Quảng Đức, Thọ Xương. Năm 1471, sau khi chinh phục Chiêm Thành, Lê Thánh Tông lập đạo thừa tuyên Quảng Nam, nâng số thừa tuyên của Đại Việt lên 13. Tháng 6/1467, vua Lê Thánh Tông dụ các thừa tuyên xem xét, tìm hiểu địa thế núi, sông và các sự tích trong địa phương mình, để vẽ địa đồ nơi đó, rồi trình lên cho Hộ bộ tổng hợp thành bản đồ hoàn chỉnh của Đại Việt. Ngày 5/4/1490 (24/04/1490), bộ bản đồ Đại Việt được hoàn tất, gọi là bản đồ Hồng Đức. Bản đồ ghi nhận nước Việt có 13 thừa tuyên, 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 36 phường, 6851 xã, 322 thôn, 637 trang, 40 sách, 40 động, 30 nguồn, 30 trường

Xây dựng – Quân sự - Kinh tế - Luật – Y tế

Năm 1465, ông cho xây dựng điện Kính Thiên, sau đó xây điện Cần Đức. 1477, cho củng cố và mở rộng thành Đại La. 1481, cho đào hồ Hải Trì ở kinh sư – hồ dài gần 100 dặm. 1490, xây dựng điện Danh Bảo và trùng tu vườn Thượng Uyển. 10/1491, xây dựng Quảng Văn đình làm nơi treo các pháp lệnh trị dân. Ngoài ra, Lê Thánh Tông đã dựng các điện Tử Hà, Bảo Quang, Kim Loan, Bảo Văn ở Đông Kinh và tẩm điện Lam Sơn ở Tây Kinh. 

Khoảng năm 1465-1470, Lê Thánh Tông ban hành chính sách tuyển quân: cứ 3 năm một lần làm lại hộ khẩu gọi là "tiểu điển", 6 năm một lần gọi là "đại điển". Cứ 6 năm 1 lần, các Xã trưởng mang sổ hộ khẩu của mình tới Đông Kinh chiếu vào viết lại trong chính thư của triều đình về số dân hiện tại trong xã.  Cuối năm 1465, Lê Thánh Tông đặt ra phép tập trận đồ quân thủy bộ. Đối với thủy quân, ông ban các trận đồ: Trung hư, Thường sơn xà, Mãn thiên tinh, Nhạn hàng, Liên châu, Ngư đội, Tam tài, Thất môn, Yển nguyệt, cùng 32 điều quân lệnh về thủy trận. Bộ quân thì có các trận đồ: Trương cơ, Tương kích, Cơ binh, và 32 điều quân lệnh về tượng trận, 27 điều quân lệnh về mã trận, 42 điều về bộ trận dành cho quân Kinh vệ 

Năm 1466 nhà vua đổi vệ quân năm đạo thành quân năm phủ: Bắc quân phủ, Trung quân phủ, Đông quân phủ, Tây quân phủ, và quân Phụng trực. Vị Tả Hữu đô đốc là quan lãnh đạo. Đối với cấm quân, năm 1470, Lê Thánh Tông lập các vệ quân Kim ngô, Cẩm y. Vệ Kim ngô được hợp thành từ 2 ty Tráng sĩ, Thần tý; vệ Cẩm y được hợp thành từ 2 ty Binh mã, Nghi vệ. Lê Thánh Tông còn đặt lệ tổ chức thi võ 3 năm 1 lần ở kinh sư; những người mang tước công, hầu, bá, tử, nam và mọi quan võ trong triều, ngoài địa phương đều phải dự thi. Các quan, tướng thi đạt đều được phong thưởng, người thi không đạt phải bị xử phạt

Dưới thời vua Lê Thánh Tông, nước Đại Việt tương đối yên ổn. Có vài lần ông phải điều binh đánh Bồn Man, Lão Qua quấy rối phía Tây (1460, 1467, 1469), "giặc cổ" xâm phạm trấn An Bang - Quảng Ninh (1467), quân của Sầm Tổ Đức, Lý Lân nước Minh (1467), quân người dân tộc thiểu số miền núi (Sơn Man) từ châu Bằng Tường bên Minh quấy nhiễu phía Bắc (1473, 1474), nhưng chỉ khi chinh phục Chiêm Thành (1471) và Bồn Man, Lão Qua (1478-80) mới dùng đến đại quân. Các chính sách quân sự của Thánh Tông đã góp phần củng cố nền cai trị của triều Lê, và đưa Đại Việt trở thành cường quốc ở bán đảo Trung-Ấn

Lê Thánh Tông còn đặc biệt quan tâm các chính sách nhằm phát triển kinh tế như: sửa đổi luật thuế khóa, điền địa, khuyến khích nông nghiệp, mở đồn điền, kêu gọi người phiêu tán về quê, đặt ra luật quân điền chia đều ruộng đất cho mọi người. Về thuế má, Lê Thánh Tông quy định người già từ 60 tuổi trở lên và hoàng đinh (thanh thiếu niên) dưới 18 tuổi, cùng những người tàn tật và những người thuộc về tráng (hạng tòng quân) đều được miễn thuế đinh; còn lại mỗi nhân đinh phải nộp thuế đồng niên là 8 tiền. Nghề in và làm giấy ở Đại Việt đạt một trình độ cao của thế giới thời bấy giờ. Số lượng sách in thời này khá đồ sộ. Đặc biệt nhất thời kỳ này là thành tựu trong công nghệ chế tạo vũ khí và đồ sắt chiếm ưu thế. Đồ gốm, sứ thời Lê sơ phát triển đạt được độ tinh xảo và hoa văn đẹp

Về thương mại, hoạt động nội thương thời Lê Thánh Tông chủ yếu là hình thức trao đổi sản phẩm giữa các địa phương. Nhờ hệ thống đường sá được xây dựng và đường sông được khơi đào, việc lưu thông hàng hoá giữa các địa phương khá thuận lợi. Năm 1477, Lê Thánh Tông ra quy định về việc chia chợ. Theo đó, các quan phủ, huyện, châu phải xem xét thực trạng, nếu việc chia chợ là thuận tiện cho việc buôn bán của dân thì làm bản tâu lên xin phép triều đình 

Đến năm 1483, vua Thánh Tông sai các đình thần sửa đổi, biên soạn lại các điều luật cũ, làm thành bộ Quốc triều Hình luật (còn gọi là Luật Hồng Đức). Bộ luật gồm 6 quyển, 722 điều, và được sử dụng suốt từ thời Hồng Đức đến hết thế kỷ XVIII. Lê Thánh Tông đã lập nhà Tế sinh để chữa bệnh giúp dân. Ông còn quy định, ở địa phương nào có dịch bệnh xảy ra, các quan nơi này được phép trích tiền thuế để mua thuốc trị bệnh cho dân

Giáo dục – Văn hoá – Khoa cử 

Triều đình thời ông có Hàn lâm viện, Đông các viện, Quốc sử viện, Quốc Tử Giám, nhà Thái học là những cơ quan chuyên phụ trách văn hóa – giáo dục trong nước. Tháng 3/1467, vua Thánh Tông thấy học sinh Quốc Tử Giám đa số học Kinh Thi, Kinh Thư, ít chịu học Kinh Lễ, Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu, nên ông đặt chức Ngũ kinh bác sĩ, mỗi người hiểu biết chuyên về một kinh để giảng dạy ở Quốc Tử Giám.Ngoài ra, ông còn đặt chức Giáo tập bác sĩ ở các vệ quân, và chức Huấn đạo chuyên dạy Nho học ở các phủ. Tháng 10/1484, Lê Thánh Tông cho sửa sang, mở rộng Văn Miếu-Quốc Tử Giám

Tháng 2/1462, ông mở khoa thi Hội, có đến hơn 4400 người dự thi, trong đó hơn 40 người trúng tiến sĩ. Ngày 16/12, nhà vua cho thi Đình để xếp loại các tiến sĩ, ông tự ra đề văn sách hỏi về đạo trị nước của đế vương. Năm 1466, Lê Thánh Tông mở khoa thi Hội thứ hai, đây được xem là khoa đầu tiên làm đúng theo quy chế 3 năm lần thi. Khoa này có 1100 người dự thi, 27 người trúng cách. Ngày 12 tháng 3 âm lịch, nhà vua tổ chức thi Đình. 

Năm 1492, ông bắt đầu phân loại rõ địa vị của các tiến sĩ: với hạng Đệ Nhất giáp, người đầu bảng (Trạng nguyên) được phong hàm chánh lục phẩm, 8 tư; người đứng thứ hai (Bảng nhãn) được phong tòng lục phẩm, 7 tư; người đứng thứ ba (Thám hoa) được phong chánh thất phẩm, 6 tư. Cả ba người đều mang danh hiệu Tiến sĩ cập đệ. Người đỗ hạng Đệ Nhị giáp được phong tòng thất phẩm, 5 tư, gọi là Tiến sĩ xuất thân; hạng Đệ Tam giáp được phong chánh bát phẩm, 4 tư, gọi là Đồng tiến sĩ xuất thân. Các tiến sĩ nếu nhận chức trong Hàn lâm viện thì được thăng lên 1 cấp, còn nếu làm Tri huyện hoặc Giám sát ngự sử thì không đổi phẩm hàm. Tháng 8/1484, Lê Thánh Tông nghe lời tâu của Lễ bộ Thượng thư Quách Đình Bảo mới sai Công bộ dựng bia Tiến sĩ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám ghi lại họ tên, thứ bậc của những người đỗ tiến sĩ trong các khoa thi 1442 (thời Lê Thái Tông), 1448 (thời Lê Nhân Tông), 1463, 1466, 1472, 1475, 1478, 1481, 1484

Vào năm 1483 Lê Thánh Tông chủ biên bộ sách Thiên Nam dư hạ tập (天南餘暇集), sai các văn thần như Đỗ Nhuận, Nguyễn Trực biên soạn. Sách được biên soạn theo loại sách hội yếu, thông điển, gồm 100 quyển ghi chép đầy đủ các chế độ, luật lệ, văn thư, điển lệ, các giấy tờ văn thư hành chính (như chiếu, dụ, cáo, sắc...).  

Năm 1464, Lê Thánh Tông đã chính thức minh oan cho Nguyễn Trãi. Ông ca ngợi Nguyễn Trãi là Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo, truy tặng tước Tán Trù bá, ban cho con là Anh Vũ chức huyện quan. Năm 1467, Lê Thánh Tông ra lệnh sưu tầm di cảo thơ văn Nguyễn Trãi. Việc làm này có thể đã góp phần bảo tồn một phần quan trọng các di sản văn hóa mà Nguyễn Trãi đã để lại.

Ngày 17/11/1496, Lê Thánh Tông bắt đầu không khỏe; trong một thời gian sau đó ông vẫn xét đoán việc chính sự. Đến ngày 29/01/1497 (02/03), bệnh của ông bất ngờ trở nặng. Nhà vua ngồi tựa ghế ngọc, chỉ định Hoàng thái tử Lê Tranh kế nghiệp. Giờ Thìn ngày hôm sau, 30 tháng 1 âm lịch (3 tháng 3 dương lịch), Lê Thánh Tông qua đời ở điện Bảo Quang, hưởng thọ 56 tuổi. Trước khi mất, ông có để lại một bài thơ Tự thuật. Ngày 08/03/1497, quan tài Lê Thánh Tông được rước về Lam Kinh. Ngày 28/03 âm lịch năm này, ông được mai táng vào Chiêu Lăng, bên tả Vĩnh Lăng của Lê Thái Tổ.

Tác phẩm

Lê Thánh Tông là một nhà thơ và phê bình văn học, vừa sáng tác văn thơ, vừa nghiên cứu, phê bình. Năm 1495, ông sáng lập ra Hội Tao đàn, xưng làm Tao đàn Nguyên soái, xướng họa thơ ca cùng Đông các Đại học sĩ Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận và nhiều quần thần khác, tổng cộng 28 người. Hội Tao đàn ra đời đánh dấu bước phát triển cao về văn chương đương thời. Thơ văn của ông chứa đựng tinh thần yêu nước và tinh thần dân tộc sâu sắc. Ông sáng tác nhiều tác phẩm có giá trị như: Quỳnh Uyển cửu ca, Châu cơ thắng thưởng, Chinh tây kỉ hành, Minh lương cẩm tú, Văn minh cổ xúy, Cổ tâm bách vịnh... tất cả khoảng trên 300 bài (bằng chữ Hán).

Ngoài thơ chữ Hán, Lê Thánh Tông còn có khá nhiều thơ Nôm, tập trung chủ yếu trong Hồng Đức quốc âm thi tập. Hiện vẫn chưa có con số thống kê chính xác các bài thơ Nôm của ông, nhưng bài văn Nôm Thập giới cô hồn quốc ngữ văn có thể coi là bài văn biền ngẫu có giá trị bậc nhất của thế kỷ XV. Trong đó, không chỉ ghi chép thơ văn, mà còn ghi chép về lý luận phê bình văn học, về lịch sử, kinh tế, quan chế, địa lý v.v... Ngoài ra, ông còn có tác phẩm Thánh Tông di thảo là dấu mốc quan trọng ghi nhận bước trưởng thành của truyện ký Đại Việt viết bằng chữ Hán, ra đời trước cả tập "Truyền kỳ mạn lục" của Nguyễn Dữ (thế kỷ XVI). Lê Thánh Tông khuyến khích các quan lại và tự mình tích cực sử dụng chữ Nôm như một sự tự tôn và tự cường

Con đường

Tại Hà Nội: nối đường Trần Hưng Đạo với quảng trường Cách mạng tháng 8 – quận Hoàn Kiếm

Tại Quảng Ninh: nối đường Lê Lợi với QL. 18 - TP. Hạ Long

Tại Đắk Lắk: nối đường Lý Tự Trọng với Phan Bội Châu - TP. Buôn Ma Thuột

Tại TP. HCM: nối đường Tôn Đức Thắng với Phạm Hồng Thái – quận 1

Tại Long Xuyên: nối đường Điện Biên Phủ với Nguyễn Bỉnh Khiêm – phường Mỹ Long

Tại Đà Nẵng: nối đường Quang Trung với Lê Lợi – quận Hải Châu



Thiên Linh

Không có nhận xét nào:

©2015 - 2018 by Thiên Linh. Khi trích dẫn, vui lòng ghi rõ: "©JimmyKyo" hoặc "©ThiênLinh". Được tạo bởi Blogger.