tag:blogger.com,1999:blog-91187283169283004902024-02-20T17:59:54.518+07:00Sidol MediaBầu Trời Lịch Sử và Văn HóaUnknownnoreply@blogger.comBlogger157125tag:blogger.com,1999:blog-9118728316928300490.post-58894722128599560642023-04-20T10:30:00.007+07:002023-04-23T12:56:46.157+07:00DNQTĐ: Cao Lỗ và Nồi Hầu<div><div style="text-align: justify;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiHi4SNmzH6vAOJhPSntotjOqs9eBwaDJcqK76qGxRv7TZGmYqs9ToDE9_lX-bEwnDVhCyK-yIWZ0THpze7CLJoSmqLeJmo8mTjuqfMAIr5YEt0-MaMquQ22xdwgZSC3Mh0nxqafUAd4kYrnwyxpYZdBG9ffsw-fkmVg_YJzapbInoD4unh7zxOkHtp/s960/Slide5.PNG" style="clear: right; float: right; margin-bottom: 1em; margin-left: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiHi4SNmzH6vAOJhPSntotjOqs9eBwaDJcqK76qGxRv7TZGmYqs9ToDE9_lX-bEwnDVhCyK-yIWZ0THpze7CLJoSmqLeJmo8mTjuqfMAIr5YEt0-MaMquQ22xdwgZSC3Mh0nxqafUAd4kYrnwyxpYZdBG9ffsw-fkmVg_YJzapbInoD4unh7zxOkHtp/w320-h240/Slide5.PNG" width="320" /></a></div><b><span style="color: #274e13; font-size: large;">Cao Lỗ</span></b> (277 TCN - 179 TCN), quê tại làng Cao Đức, Bắc Ninh. Ông là vị tướng tài của nhà Âu Lạc, người sáng chế ra <b><i>Nỏ liên châu</i></b> – một trong tứ đại thần khí của Việt Nam, và là chỉ huy trưởng công trình xây thành Cổ Loa.<br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;"><br /></span></b></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Truyền thuyết</span></b></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Cao Lỗ hay còn gọi là Cao Thông, Đô Lỗ, Thạch Thần hay Đại Than Đô Lỗ Thạch Thần, sinh năm 277 TCN tại xã Cao Đức, Gia Bình, Bắc Ninh. Huyền sử không ghi nhiều về ông chỉ cho biết rằng: Ông từng làm bộ hạ của Hùng Vương thứ 18 nhưng không được trọng dụng. Khi Âu Việt xâm lược Văn Lang, phò mã là Nguyễn Tuấn tử trận, vua Hùng phải tự tử, ông chán nản bỏ vào rừng sống ẩn dật. Sau này Thục Phán giết được danh tướng Đồ Thư và đánh tan 50 vạn đại quân nhà Tần, ông mới cảm phục ra giúp Thục Phán. Thục Phán cũng rất quý tài của ông.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Sau khi làm quan dưới triều vua An Dương Vương, ông là người khuyên vua dời đô xuống đồng bằng, tìm đất đóng đô và là người được An Dương Vương giao nhiệm vụ thiết kế, chỉ huy công trình xây thành Cổ Loa với sự giúp đỡ của rùa thần Kim Quy. Sau đó nhờ cái vuốt rùa thần trao tặng, Cao Lỗ đã tìm tòi và sáng chế ra Nỏ thần Liên châu: “Bắn một lần được nhiều mũi tên mà các mũi tên đều bịt đồng sắc nhọn”. Sử sách cũ đã thần thánh hóa gọi là "Linh Quang Thần Cơ hay Linh Quang Kim Trảo Thần Nỏ". Cao Lỗ huấn luyện cho hàng vạn binh sĩ ngày đêm tập bắn nỏ. An Dương Vương thường xem tập bắn trên "Ngự xa đài", dấu vết này nay vẫn còn (góc đông bắc ngoài thành nội). Là người phát minh ra nỏ thần, lại có tài bắn nỏ nên dân gian thường gọi ông là Ông Nỏ. Khi Triệu Đà cho quân xâm lược Âu Lạc, quân Triệu đã bị các tay nỏ liên châu bắn tên ra như mưa, thây chết đầy nội và phải lui binh. Đương thời, nỏ liên châu trở thành thứ vũ khí thần dũng vô địch của nước Âu Lạc.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Năm 179 TCN, Triệu Đà bèn lập xảo kế thông gia, cho con trai là Trọng Thủy lấy con gái An Dương Vương là Mỵ Châu. Cao Lỗ phản đối, khuyên vua không nên nhận, nhưng An Dương Vương không nghe còn nghe lời dèm pha của Lạc hầu. Cao Lỗ dần dần bị vua xa lánh, ông bỏ đi tìm nơi ở ẩn. Sau khi Trọng Thủy biết được bí mật phòng thủ của An Dương Vương và về mách cho vua cha, Triệu Đà mang quân sang đánh Âu Lạc. An Dương Vương thua chạy. Quân Triệu đuổi theo. Cao Lỗ biết tin, ra đón đường chặn đánh quân Triệu cho vua chạy thoát nhưng do Mỵ Châu tin lời của Trọng Thủy, rải lông ngỗng theo sau để Trọng Thủy lần theo nên cả hai đã tử trận.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Theo dân gian, khi bị thương nặng ở cổ, tướng quân Cao Lỗ đã buộc lại và thúc ngựa chạy tới Ái Mộ (xã Bồ Đề, huyện Gia Lâm) nghỉ một lát rồi lại chạy tiếp về vùng Bình Than, Lục Đầu được ít lâu sau thì mất. Ông mất ngày 4 tháng 4 âm lịch năm Nhâm Tuất (179 TCN).</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Con đường</span></b></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><div>Tại Hà Nội: nối QL 3 với đường Dục Nội – Đông Anh</div><div><br /></div></div><div style="text-align: justify;">Tại Đà Nẵng: nối đường Trần Nhân Tông với Ngô Quyền - Q. Sơn Trà</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Quảng Ninh: nối đường Cao Đạt với Trần Bình Trọng - TP. Hạ Long</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Nghệ An: nối đường Ngư Hải với Trần Phú - TP. Vinh</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại TP.HCM: nối đường C7B với Phạm Thế Hiển – quận 8</div><div style="text-align: justify;"><br /></div></div><div style="font-weight: bold; text-align: center;"><b><span style="color: red;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d10771.604779635245!2d106.67577201435441!3d10.739865481369606!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x31752fac96e4c9bf%3A0xa2bdf67b41f7a794!2zxJDGsOG7nW5nIENhbyBM4buXLCBRdeG6rW4gOCwgVGjDoG5oIHBo4buRIEjhu5MgQ2jDrSBNaW5oLCBWaeG7h3QgTmFt!5e0!3m2!1svi!2s!4v1633709086811!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe> </span></b></div><div style="font-weight: bold; text-align: center;"><b><span style="color: red;"><br /></span></b></div><div style="text-align: center;"><span style="color: red;">---</span></div><div><br /></div><div><div style="text-align: justify;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhQRVAf7nF2q4R-8JVRX2idJKYGjN7KRgIQ10-u5PVQYyo5rklbK4D_qr5UkddonjpQlmmB_94Zt2BI-Az5kLVhPSm7PzUPo_tGnY8BsdCyUOlFvAKLmFFhXuLS6Cw3-eDbcQ6uMswkLxOZEGtEkP9BkM0drI8ZZ7SMgacGAEwo3JRoz-tvJS43d_cG/s960/Slide6.PNG" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="300" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhQRVAf7nF2q4R-8JVRX2idJKYGjN7KRgIQ10-u5PVQYyo5rklbK4D_qr5UkddonjpQlmmB_94Zt2BI-Az5kLVhPSm7PzUPo_tGnY8BsdCyUOlFvAKLmFFhXuLS6Cw3-eDbcQ6uMswkLxOZEGtEkP9BkM0drI8ZZ7SMgacGAEwo3JRoz-tvJS43d_cG/w400-h300/Slide6.PNG" width="400" /></a></div><b><span style="color: #274e13; font-size: large;">Nồi Hầu</span></b> (? - 179 TCN) còn gọi là <b>Đào Nồi</b>, là một tướng tài của An Dương vương, quê quán tại làng Canh (nay là Hương Canh, Bình Xuyên, Vĩnh Phúc).</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Cuộc đời</span></b></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Theo thần tích làng Chiêm Trạch (Cổ Loa), Nồi Hầu có tên là Đào Nồi, con của một người thợ làm nồi đất tên là Đào Hoằng. Từ nhỏ Nồi đã nổi tiếng thông minh, lại giỏi võ, giỏi vật nhất vùng. Gặp khi An Dương Vương mở kỳ võ để chọn người tài chống giặc, dân làng cử Nồi và cấp tiền gạo cho anh về kinh dự thi. Đô Nồi đà giật được giải và được cử làm tướng trong triều đình Âu Lạc. Nồi Hầu được An Dương Vương bổ làm quan của nước Âu Lạc với tước hầu. Ông cùng với Cao Lỗ là tướng giỏi của vua An Dương Vương đánh đuổi quân Triệu Đà. Sau đó lấy một cô gái mồ côi trong làng và sinh được hai người con trai. Ông và hai người con trai là Đống Vịnh và Lý Vực đều được làm quan võ trong triều. Khi cuộc chiến tranh chống nhà Triệu xảy ra, ngoài quân đội chính quy do An Dương Vương ban cấp, Nồi Hầu còn huy động được rất đông dân làng tham gia đánh giặc.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Sau khi chiếm được Cổ Loa, Triệu Đà đã sai người về làng Chiêm Trạch mang danh lợi ra dụ dỗ cha con Nồi Hầu. Nồi Hầu đã cự tuyệt lời dụ dỗ. Ba cha con ông lớn tiếng mắng Trọng Thủy là quân phản bội. Ông Nồi còn tỏ ý tức giận không chém được đầu giặc để trả thù cho vua Thục chứ khi nào chịu làm tôi tớ cho quân cướp nước. Mua chuộc không được, Triệu Đà đem quân vây kín làng Chiêm Trạch, ba cha con Nồi Hầu cùng dân làng chống cự quyết liệt với quân Triệu nhưng quân giặc quá đông. Không chịu để giặc bắt, hai vợ chồng ông kiên quyết chống giặc đến hơi thở cuối cùng, rồi cả hai vợ chồng nhảy xuống giếng Mỏ Gia tự vẫn. Hai người con biết tin dữ, cũng tìm về nhảy xuống giếng chết theo. </div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Sau này, tương truyền hai người đã than rằng:</div><div style="text-align: center;"><i><span style="color: #073763;">Xuất sư vị tiệp thán tiên tử</span></i></div><div style="text-align: center;"><i><span style="color: #073763;">Trường Sở anh hùng lệ mãn khâm.</span></i></div><div style="text-align: center;"><i><br /></i></div><div style="text-align: center;"><u>Tạm dịch:</u></div><div style="text-align: center;"><i>Làm tướng ra quân nên phải chết</i></div><div style="text-align: center;"><i>Chuyện của anh hùng lệ đầy khăn.</i></div></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div><b><span style="color: red;">Thiên Linh</span></b></div>Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-9118728316928300490.post-29349312602125481802023-04-20T10:30:00.001+07:002023-04-20T10:30:00.162+07:00DNQTĐ: Trần Quốc Lặc và Trương Xán<div style="text-align: justify;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiAxmGUE9FuoSfOSIM_9NG5Drostz_7zvZ5n7H6S4gkT_SA_yw3WRjY4pQMESqV5XwtgHICNF81R65O_sJ2rvT0-pcDHaZ3ORMlRbPV4xzM2UHdcjtjLH-L2pT5FR2ngZpTufKV8By5ypo/s960/Slide7.PNG" style="clear: right; float: right; margin-bottom: 1em; margin-left: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="300" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiAxmGUE9FuoSfOSIM_9NG5Drostz_7zvZ5n7H6S4gkT_SA_yw3WRjY4pQMESqV5XwtgHICNF81R65O_sJ2rvT0-pcDHaZ3ORMlRbPV4xzM2UHdcjtjLH-L2pT5FR2ngZpTufKV8By5ypo/w400-h300/Slide7.PNG" width="400" /></a></div>
<b><span style="color: #38761d; font-size: large;">Trần Quốc Lặc</span></b> - 陳國扐, (? - ?) là Trạng nguyên của Việt Nam, ông là người làng Uông Hạ, huyện Thanh Lâm, châu Thượng Hồng (nay là thôn Uông Hạ, xã Minh Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương).</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Tháng 2 năm 1256, ông đỗ Kinh trạng nguyên khoa Bính Thìn niên hiệu Nguyên Phong thứ 6, đời Trần Thái Tông, cùng khoa với Trại trạng nguyên Trương Xán, bảng nhãn Chu Hinh, thám hoa lang Trần Uyên. Làm quan đến Thượng thư. Sau khi mất, vua phong làm Phúc thần, hiệu là Mạnh Đạo Đại Vương</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: #0b5394;">Con đường</span></b></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Hải Dương: nối đường An Định với Đoàn Nhữ Hài - TP. Hải Dương </div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" referrerpolicy="no-referrer-when-downgrade" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d1945.5432016312718!2d106.33862318617737!3d20.947818036455484!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x31359b4e141b342d%3A0x8e941d8eacc9d1cc!2zVHLhuqduIFF14buRYyBM4bq3YywgTmfhu41jIENow6J1LCBI4bqjaSBExrDGoW5nLCBWaeG7h3QgTmFt!5e0!3m2!1svi!2s!4v1679744664017!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe></div><div style="text-align: center;"><br /></div><div style="text-align: center;">---</div><div style="text-align: center;"><br /></div>
<div style="text-align: justify;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhEZuflcrd1PSoFZecLXIrsOkNud41AxrVqV0xonyum7DPvA-er7iZj3ZwKzzkUvgw730lykiuZdsd34EIZm65LizfDyJLQG7lLTo680S5vK21W4lWZUoZiKRb0e7GgzlOdeh18968Fv1c/s960/Slide8.PNG" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhEZuflcrd1PSoFZecLXIrsOkNud41AxrVqV0xonyum7DPvA-er7iZj3ZwKzzkUvgw730lykiuZdsd34EIZm65LizfDyJLQG7lLTo680S5vK21W4lWZUoZiKRb0e7GgzlOdeh18968Fv1c/s320/Slide8.PNG" width="320" /></a></div>
<b><span style="color: #38761d; font-size: large;">Trương Xán</span></b> - 張燦, (? - ?) là Trạng nguyên thứ 3 trong lịch sử khoa cử của Việt Nam. Ông quê ở xã Hoành Bồ, huyện Quảng Trạch, châu Bố Chính, nay là huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. </div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Tháng 2 năm Nguyên Phong thứ sáu (1256), đời vua Trần Thái Tông, Trương Xán đỗ Trại trạng nguyên cùng với Kinh trạng nguyên Trần Quốc Lặc, bảng nhãn Chu Hinh (朱馨), thám hoa lang Trần Uyên (陳淵). Khoa thi này là khoa thi đầu tiên phân ra kinh và trại trạng nguyên của nhà Trần, với 43 người thi đỗ thái học sinh, trong đó 42 người thuộc khu vực từ Ninh Bình trở ra.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: #0b5394;">Con đường</span></b></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Quảng Bình: nối đường Thái Phiên với Tôn Đức Thắng - TP. Đồng Hới</div><div style="text-align: justify;"><br /></div>
<div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" referrerpolicy="no-referrer-when-downgrade" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d1987.1880687762803!2d106.59298471665144!3d17.465673424182548!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x314756f029c38fcd%3A0x2580988bee401c17!2zVHLGsMahbmcgWMOhbiwgTmFtIEzDvSwgxJDhu5NuZyBI4bubaSwgUXXhuqNuZyBCw6xuaCwgVmnhu4d0IE5hbQ!5e0!3m2!1svi!2s!4v1679744761202!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe>
<br /></div><div style="text-align: center;"><br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<span style="color: red;"><b>Thiên Linh</b></span></div>
Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-9118728316928300490.post-19200881993222084082023-04-17T18:42:00.007+07:002023-04-17T18:42:00.184+07:00DNQTĐ: Thiều Hoa công chúa<div><div style="text-align: justify;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjfKXqsXLI1rJvwWFwbQqLrqA8d1G3-vVGABI93feHgH-5h6G56VYOgKDn1Bi_mfpcy0X8qf6b0r198sCb8TunXF26CTj1I2xH7s7nHxvMk0qoXRWr3lewHtDMsKs5vgnX9j3q8woOFn9EtqFV-BJVxVkPNRNpsbEN0I3f5iB0-Vs5w-VdN1wljBuT9/s960/Slide4.PNG" imageanchor="1" style="clear: right; float: right; margin-bottom: 1em; margin-left: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="300" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjfKXqsXLI1rJvwWFwbQqLrqA8d1G3-vVGABI93feHgH-5h6G56VYOgKDn1Bi_mfpcy0X8qf6b0r198sCb8TunXF26CTj1I2xH7s7nHxvMk0qoXRWr3lewHtDMsKs5vgnX9j3q8woOFn9EtqFV-BJVxVkPNRNpsbEN0I3f5iB0-Vs5w-VdN1wljBuT9/w400-h300/Slide4.PNG" width="400" /></a></div><b><span style="color: #ff0088; font-size: large;">Hoàng Thiều Hoa</span></b> (3 - 41) là một nữ tướng của Hai Bà Trưng trong lịch sử Việt Nam.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Cuộc đời</span></b></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Thiều Hoa sinh ngày mùng 02 tháng giêng năm 3 CN. Một số sử sách có ghi chép lại bà họ Hoàng. Bà là người đẹp nhất thời Lĩnh Nam, xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo ở động Lăng Sương (nay là huyện Thanh Thủy, Phú Thọ). </div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Theo thần tích, cha bà là Hoàng Phụ và mẹ là Đào Thị Côn. Tương truyền, hai ông bà tuổi đã cao nhưng vẫn chưa có con. Một hôm, hai vợ chồng lên núi kiếm củi, tới trưa khi mặt trời đã đứng bóng, đang ngồi nghỉ dưới gốc cây, trong lúc đang mơ màng, ông Phụ thấy có một người con gái xưng là Hoa Nương Sơn thần, nói với ông rằng: "Ngọc Hoàng biết hai vợ chồng ông bà là người có đức mà hiếm muộn về con cái nên sai tôi xuống giúp ông bà yên lòng". Ông tỉnh dậy kể lại giấc mơ cho vợ nghe. Hai vợ chồng vừa nửa mừng, nửa lo. Ít lâu sau, bà Côn có mang và sinh ra một đứa con gái, đặt tên là Thiều Hoa.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Thời niên thiếu, trong những buổi chăn trâu, hái củi bên núi Tản Viên, bà thường cùng bạn bè đẽo củi tre, dùng gậy khăng chia làm hai phe chơi đánh phết, dựng cây chuối làm bia, dùng gậy để phóng lao. Khi bà 16 tuổi thì cha mẹ mất, bà rời động Lăng Sương đi tìm cảnh phật làm nữ tu hành. Qua nhiều nơi, bà đến chùa Phúc Khánh xuất gia. (chính là chùa Hiền Quan ngày nay). Thấy Thiều Hoa đã trưởng thành, nhà sư khuyên bà cùng với những đồng môn khác đến ứng nghĩa dưới lá cờ của Hai Bà Trưng. Tại Mê Linh, những tráng sĩ trai gái sông Đà, sông Thao được Hai Bà Trưng tiếp đón nồng nhiệt. Bà cùng 500 quân sĩ gia nhập quân của Hai Bà Trưng khởi nghĩa đánh đuổi giặc Hán, được phong làm Tiên phong hữu tướng, nhiều lần giáp trận với giặc Hán đều được toàn thắng.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Sau khi đánh tan giặc Hán, bà được Trưng Vương phong làm Đông Cung Công chúa, nhưng bà không nhận quan chức ở triều đình, bà chỉ xin được về an xã nên đã tâu với vua rằng: "Kẻ hạ thần vốn là người con gái đang nguyện chốn tu hành, nên chức trọng quyền cao nào có ích gì, nếu bệ hạ nghĩ tới công lao mà ban thưởng thì xin bệ hạ gia ân cho hạ thần được thực ấp tại bản địa nơi tu hành là đủ". Nghe vậy, Trưng Vương ưng thuận. Thiều Hoa trở về Song Quan cho tu sửa lại cảnh chùa, ban phát vàng bạc, gấm vóc được thưởng cho dân nghèo.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Theo thần tích thì Thiều Hoa mất vào ngày 21 tháng 7 năm Tân Sửu (41). Một hôm, giữa lúc trời quang mây tạnh, Thiều Hoa đang đi dạo chơi ven cánh đồng làng. Tự nhiên, một cơn giông kéo đến bất ngờ. Trời bỗng tối sầm lại, sấm sét đùng đùng rồi mưa trút xuống như thác. Khi tạnh ráo, dân làng đi tìm nàng thì thấy nàng đã hóa.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Sau khi bà mất, Trưng Vương đã truy phong bà là "Phụ Vương Công chúa" và truyền cho dân làng lập đền thờ bà. Nhân dân Song Quan suy tôn bà là "Đức thánh mẫu Đệ nhất Đại Vương" của làng và thờ cúng bà rất tôn nghiêm. Từ đó đến nay, đền thờ, lăng mộ của bà, chùa Phúc Khánh và đình làng vẫn được giữ gìn và luôn tu tạo chu đáo.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><span style="color: #0b5394;"><b>Con đường</b></span></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Phú Thọ: nối đường Trần Phú với Ngô Gia Tự - TP. Việt Trì</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại TP. HCM: nối đường Thạch Lam với Hoà Bình – Q. Tân Phú</div></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" referrerpolicy="no-referrer-when-downgrade" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d2852.705064597939!2d106.62876929646136!3d10.774107617636046!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x31752c1ff0c0f769%3A0xbcfe6da16e59b6d6!2zSG_DoG5nIFRoaeG7gXUgSG9hLCBIaeG7h3AgVMOibiwgVMOibiBQaMO6LCBUaMOgbmggcGjhu5EgSOG7kyBDaMOtIE1pbmgsIFZp4buHdCBOYW0!5e0!3m2!1svi!2s!4v1679744530012!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: red;">Thiên Linh</span></b></div>Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-9118728316928300490.post-31992104216583567462023-04-15T10:30:00.003+07:002023-04-15T10:30:00.179+07:00DNQTĐ: Dương Như Ngọc<div><div style="text-align: justify;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh8nI_AROWruJOGpCX1G-A58Ctg7_2t8hIfz6JLvD3v4qGnAxglIvKp9PPUE8kKehf8jO3QOjWc4_Y3kqc3z4ovm7JVR8ojI-2I_tHvBznWhC6Cv8wQHj79nufmSXWHYz_7FYo4NVj0RzTeJAvHJ-rhA-ksW0CI0LU_ohIIoRM0SN4pKv8aIPLZJotv/s960/Slide3.PNG" imageanchor="1" style="clear: right; float: right; margin-bottom: 1em; margin-left: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="300" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh8nI_AROWruJOGpCX1G-A58Ctg7_2t8hIfz6JLvD3v4qGnAxglIvKp9PPUE8kKehf8jO3QOjWc4_Y3kqc3z4ovm7JVR8ojI-2I_tHvBznWhC6Cv8wQHj79nufmSXWHYz_7FYo4NVj0RzTeJAvHJ-rhA-ksW0CI0LU_ohIIoRM0SN4pKv8aIPLZJotv/w400-h300/Slide3.PNG" width="400" /></a></div><b><span style="color: #ff0088; font-size: large;">Dương Quốc mẫu</span></b> (楊國母), tên thật là Dương Thị Vy, hay Dương Như Ngọc, là một người vợ của Ngô Vũ vương Ngô Quyền, và là Vương hậu nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Cuộc đời</span></b></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Lịch sử không ghi nhận nhiều về hành trạng của bà. Bà là con gái của Dương Đình Nghệ, được gả cho Ngô Quyền trước khi Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn giết hại và là mẹ của Ngô Xương Văn, không có chứng minh nào bà là mẹ của Ngô Xương Ngập. Bà không có tên rõ ràng trong chính sử. Theo nhà sử học Lê Văn Lan, tên gọi Dương Như Ngọc được đặt theo dân gian mang màu sắc Đạo giáo, như trường hợp một bà Dương hậu khác cũng được đặt tên văn nghệ, là Dương Vân Nga.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Năm 939, bà trở thành Vương hậu của nhà Ngô, là vị vương hậu đầu tiên được chép vào sử sách trong lịch sử Việt Nam, vì trước Ngô Quyền, đã có nhiều vua Việt Nam xưng hiệu nhưng không thấy sử sách chép vợ của các vua này (An Dương Vương, Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương, Hậu Lý Nam Đế, Mai Hắc Đế). </div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Những suy đoán về tuổi tác của Ngô Quyền, Ngô Xương Ngập và con cả Xương Ngập là Ngô Xương Tỷ (tức Khuông Việt đại sư) cho thấy bà không phải là người sinh ra Ngô Xương Ngập còn vì Xương Ngập ra đời khoảng năm 915 khi Ngô Quyền chưa gặp bà và hơn Xương Văn khá nhiều tuổi. Theo một số giai thoại, Ngô Quyền còn một người vợ họ Đỗ, tên thật là Đỗ Thị Sa quê ở Cổ Loa, nhưng bà Đỗ không có con. Do đó có thể cả ba người con sau của Ngô Quyền là Xương Văn, Nam Hưng và Càn Hưng đều là con đẻ của Dương hậu.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Bà sống tới khi Ngô Xương Văn phục hồi ngôi báu từ tay em (hay anh) bà là Dương Tam Kha và cũng trở thành Thái hậu đầu tiên được ghi trong sử sách Việt Nam. Sau đó không rõ bà mất khi nào. Có thể bà mất trước khi Xương Văn tử trận năm 965.</div></div><div><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: red;">Thiên Linh</span></b></div>Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-9118728316928300490.post-64957889840041122452023-04-12T17:00:00.004+07:002023-04-12T17:00:00.183+07:00DNQTĐ: Chử Đồng Tử<div style="text-align: justify;">
<span style="color: #b45f06; font-size: large;"><b><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhPdHR7wcVzNeDtEU1E87MAaOl01lMoz0ydqXITgw1PpPRt5jH5jsWMC2bKahOdzCfrDYzXreV7NzDPrsNJtSUOOK8SvvofUFKwoYGsenm4ngpx3m-mWfPOBIRR7AG0r4vTnqBsqDbS_Iw/s960/Slide26.PNG" style="clear: right; float: right; margin-bottom: 1em; margin-left: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="300" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhPdHR7wcVzNeDtEU1E87MAaOl01lMoz0ydqXITgw1PpPRt5jH5jsWMC2bKahOdzCfrDYzXreV7NzDPrsNJtSUOOK8SvvofUFKwoYGsenm4ngpx3m-mWfPOBIRR7AG0r4vTnqBsqDbS_Iw/w400-h300/Slide26.PNG" width="400" /></a></div>Chử Đồng Tử </b></span>(渚童子) là một nhân vật truyền thuyết, thần thoại và là một vị thánh nổi tiếng. Về sau, ông thường được liệt vào một trong Tứ bất tử của Tín ngưỡng Việt Nam.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: blue;">Truyền thuyết</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: blue;"><br /></span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
Tương truyền Chử Đồng Tử sống cùng cha là Chử Cù Vân (渚衢雲) hoặc Chử Vi Tử (渚微子), tại thôn Chử Xá (nay là xã Văn Đức, Gia Lâm, Hà Nội). Chẳng may nhà cháy, mất hết của cải, hai cha con chỉ còn lại một chiếc khố phải thay nhau mà mặc. Lúc người cha lâm chung, ông gọi con lại bảo rằng hãy giữ chiếc khố lại cho bản thân. Thương cha nên Chử Đồng Tử liệm khố theo cha, mình thì chịu cảnh trần truồng khổ sở, kiếm sống bằng cách ban đêm câu cá, ban ngày dầm nửa người dưới nước, đến gần thuyền bán cá hoặc xin ăn.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Thời ấy, Hùng Vương thứ 18, có cô con gái tên là Tiên Dung (仙容), đến tuổi cập kê mà vẫn chỉ thích ngao du sơn thủy, không chịu lấy chồng. Một hôm thuyền rồng của Tiên Dung đến thăm vùng Chử Xá. Nghe tiếng chuông trống, đàn sáo lại thấy nghi trượng, người hầu tấp nập, Chử Đồng Tử hoảng sợ vội vùi mình vào cát lẩn tránh. Thuyền ghé vào bờ, Tiên Dung dạo chơi rồi sai người quây màn ở bụi lau để tắm, ngờ đâu đúng ngay chỗ của Chử Đồng Tử. Nước xối dần để lộ thân hình Chử Đồng Tử dưới cát. Tiên Dung kinh ngạc bèn hỏi han sự tình, nghĩ ngợi rồi xin được cùng nên duyên vợ chồng.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Hùng Vương nghe chuyện thì giận dữ vô cùng, không cho Tiên Dung về cung. Nàng biết ý nên cùng chồng mở chợ Hà Thám, đổi chác với dân gian. Buôn bán tấp nập, phồn thịnh, ai cũng kính thờ Tiên Dung và Chử Đồng Tử làm chúa. Một hôm, có người bày cho cách ra ngoài buôn bán nhiều lãi, Tiên Dung khuyên chồng nghe theo. Chử Đồng Tử bèn theo khách buôn đi khắp ngược xuôi. Một hôm qua ngọn núi giữa biển tên Quỳnh Viên sơn (瓊園山), Chử Đồng Tử trèo lên am trên núi và gặp một tăng sĩ tên Phật Quang (佛光). Chử Đồng Tử bèn giao tiền cho khách buôn đi mua hàng, còn mình thì ở lại học phép thuật. Sau thuyền quay lại đón, Phật Quang tặng Chử Đồng Tử một cây gậy và một chiếc nón lá, dụ rằng đây là vật thần thông.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Về nhà, Chử Đồng Tử truyền mọi sự lại cho vợ. Tiên Dung giác ngộ bèn bỏ việc buôn bán, cùng chồng chu du tìm thầy học đạo. Một hôm tối trời, đã mệt mà không có hàng quán ven đường, hai vợ chồng dừng lại cắm gậy úp nón lên trên cùng nghỉ. Bỗng nửa đêm, chỗ đó nổi dậy thành quách, cung vàng điện ngọc sung túc, người hầu lính tráng, văn võ bá quan lẫn tiên đồng ngọc nữ đều sẵn sàng để hầu hạ. Sáng hôm sau, dân chúng quanh vùng kinh ngạc bèn dâng hương hoa quả ngọt đến xin làm bầy tôi. Từ đấy chỗ đó phồn thịnh, sung túc như một nước riêng.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Nghe tin, Hùng Vương cho là có ý tạo phản, vội xuất binh đi đánh. Quân nhà vua đến, mọi người xin ra chống cự nhưng Tiên Dung chỉ cười và từ chối không kháng cự cha mình. Trời tối, quân nhà vua đóng ở bãi Tự Nhiên cách đó một con sông. Đến nửa đêm bỗng nhiên bão to gió lớn nổi lên, thành trì, cung điện và cả bầy tôi của Tiên Dung-Chử Đồng Tử phút chốc bay lên trời. Chỗ nền đất cũ bỗng sụp xuống thành một cái đầm rất lớn. Nhân dân cho đó là điều linh dị bèn lập miếu thờ, bốn mùa cúng tế, và gọi đầm đó là đầm Nhất Dạ Trạch (Đầm Một Đêm), bãi cát đó là Bãi Tự Nhiên hoặc Bãi Màn Trù và chợ đó là Hà Thị.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Khi Triệu Quang Phục chống giặc Hậu Lương, ông đã hạ trần và tháo vuốt rồng trao cho Quang Phục, bảo: "Đem vật này đeo lên mũ đâu mâu có thể khiến giặc bị diệt". Đoạn bay lên trời mà đi. Triệu Quang Phục được vật đó, reo mừng vang động, xông ra đột chiến, quân Lương thua to. Chém Dương Sằn ở trước trận, quân Lương phải lùi. Sau đó, Quang Phục nghe tin Nam Đế mất, bèn tự lập làm Triệu Việt vương, xây thành ở Trâu Sơn, huyện Vũ Ninh.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: blue;">Con đường</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">Tại Quảng Bình: nối đường Phạm Tu với Lê Lợi – tph. Đồng Hới</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Khánh Hoà: nối đường 2 Tháng 4 với Lạc Thiện - TP. Nha Trạng</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Gia Lai: nối đường Hùng Vương với Nguyễn Tất Thành - TP. Pleiku</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">
Tại TP.HCM: nối đường Vân Côi với Bành Văn Trân – Q. Tân Bình</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div><div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d1959.6570711323639!2d106.65675401353079!3d10.787234378705028!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x31752ecbea984961%3A0xfb2ffc808e86beb1!2zQ2jhu60gxJDhu5NuZyBU4butLCBwaMaw4budbmcgNywgVMOibiBCw6xuaCwgVGjDoG5oIHBo4buRIEjhu5MgQ2jDrSBNaW5oLCBWaeG7h3QgTmFt!5e0!3m2!1svi!2s!4v1633708707048!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: red;">Thiên Linh</span></b></div>
Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-9118728316928300490.post-9780621363600634502023-04-10T15:30:00.208+07:002023-04-10T15:30:00.185+07:00DNQTĐ: Hải Thượng Lãn Ông<div style="text-align: justify;">
<span><div class="separator" style="clear: both; text-align: justify;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh2q4CDP9i8_lom5-3TCjfho1qFWoRi1OBnher--BzqAaIpYc-u6BoW1QYAIdewtdJhv0RJ7Du9aV-Ygddpsrudg-t1bbSsAzZmyO4U7TVt9RT5tIu-gf4Z6B9hkN5fLWJUYW2sOz7-Xiyjdy8OoCoYAVHtH0xtIHgaj3ZO0P-YhV8Q-BU4ldCUo0-h/s960/Slide2.PNG" imageanchor="1" style="clear: right; float: right; margin-bottom: 1em; margin-left: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="300" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh2q4CDP9i8_lom5-3TCjfho1qFWoRi1OBnher--BzqAaIpYc-u6BoW1QYAIdewtdJhv0RJ7Du9aV-Ygddpsrudg-t1bbSsAzZmyO4U7TVt9RT5tIu-gf4Z6B9hkN5fLWJUYW2sOz7-Xiyjdy8OoCoYAVHtH0xtIHgaj3ZO0P-YhV8Q-BU4ldCUo0-h/w400-h300/Slide2.PNG" width="400" /></a></div><b style="color: #b45f06; font-size: x-large; font-weight: bold;"><span style="color: #b45f06; font-size: large;">Hải Thượng Lãn Ông</span></b> (海上懶翁) là tên hiệu của Lê Hữu Trác (黎有晫, 11/12/1720 – 20/04/1791) nghĩa là ông già lười Hải Thượng. Tuy là người tinh thông y học, dịch lý, văn chương, nhưng ông được biết đến nhiều hơn với vai trò lương y. Ông được xem là ông tổ của Cục Quân y, Quân đội nhân dân Việt Nam.</div></span></div>
<div style="text-align: justify;"><b><span style="color: blue;"><br /></span></b></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: blue;">Cuộc đời</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;"><b>Lê Hữu Trác </b>vốn có tên cúng cơm là <b>Lê Huân</b> (黎薰), tự Cận Như (瑾如), bút hiệu Quế Hiên (桂軒), Thảo Am (草庵), Lãn Ông (懶翁), biệt hiệu cậu Chiêu Bảy (舅招𦉱), sinh ngày 12 tháng 11 năm Canh Tí (tức ngày 11/12/1720) tại Liêu Xá, Yên Mỹ, Hưng Yên. Tuy nhiên, cuộc đời ông phần nhiều (đặc biệt là từ năm 26 tuổi đến lúc mất) gắn bó với ở quê mẹ thôn Bàu Thượng, Quang Diệm, Hương Sơn, Hà Tĩnh. Ông là con thứ bảy của tiến sĩ Lê Hữu Mưu và phu nhân Bùi Thị Thưởng.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Thân sinh của ông từng đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, làm Thị lang Bộ Công triều Lê Dụ Tông, gia phong chức Ngự sử, tước Bá, khi mất được truy tặng hàm Thượng thư (năm Kỷ Mùi 1739). Khi ấy, Lê Hữu Trác mới 20 tuổi, ông phải rời kinh thành về quê nhà, vừa trông nom gia đình vừa chăm chỉ đèn sách, mong nối nghiệp gia đình, lấy đường khoa cử để tiến thân. Nhưng xã hội bấy giờ rối ren, các phong trào nông dân nổi dậy khắp nơi. Chỉ một năm sau (1740), ông bắt đầu nghiên cứu thêm binh thư và võ nghệ, "nghiên cứu trong vài năm cũng biết được đại khái, mới đeo gươm tòng quân để thí nghiệm sức học của mình". Chẳng bao lâu sau, ông nhận ra xã hội thối nát, chiến tranh chỉ tàn phá và mang bao đau thương, làm ông chán nản muốn ra khỏi quân đội, nên đã nhiều lần từ chối sự đề bạt. </div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Đến năm 1746, nhân khi người anh ở Hương Sơn mất, ông liền viện cớ về nuôi mẹ già, cháu nhỏ thay anh, để xin ra khỏi quân đội, thực sự "bẻ tên cởi giáp" theo đuổi chí hướng mới. Lúc này ông đã bị bệnh nặng nhưng không thể chữa khỏi. Sau được lương y Trần Độc ở Nghệ An chữa trị dứt điểm và truyền dạy những hiểu biết về y học truyền cho ông. Vốn là người thông minh học rộng, ông mau chóng hiểu sâu y lý, tìm thấy sự say mê ở sách y học, nhận ra nghề y không chỉ lợi ích cho mình mà có thể giúp người đời, nên ông quyết chí học thuốc.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Năm 1756, ông ra kinh đô mong tìm thầy dạy thêm nhưng không gặp được thầy giỏi, ông đành bỏ tiền mua một số phương thuốc gia truyền, trở về Hương Sơn. Mười năm sau tiếng tăm của ông đã nổi ở vùng Hoan Châu.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Ngày 12/01/1782, ông nhận được lệnh chúa triệu về kinh. Ông thực lòng không muốn đi nhưng vì thực hiện tâm nguyện in sách “Tâm lĩnh” cho thiên hạ biết mà từ giã lên đường. Ông vào phủ chữa trị cho Trịnh Cán, Trịnh Sâm,… Tháng 09/1982, ông được trở về thăm quê nội ở Hưng Yên. Ông ở kinh đô một thời gian rồi quay lại Hương Sơn vào ngày 02/11/1782</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Năm 1783, ông viết xong tập "Thượng kinh ký sự". Mặc dầu tuổi già, công việc lại nhiều: chữa bệnh, dạy học, nhưng ông vẫn tiếp tục chỉnh lý, bổ sung, viết thêm (tập Vân khí bí điển, năm 1786) để hoàn chỉnh bộ "Hải Thượng y tông Tâm lĩnh". Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác không chỉ là danh y có cống hiến to lớn cho nền y học dân tộc, ông còn là một nhà văn, nhà thơ, nhà tư tưởng lớn của thời đại.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Ông qua đời vào ngày 15 tháng 1 năm Tân Hợi (tức ngày 17/02/1791) tại Bầu Thượng, (nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh), thọ 71 tuổi. Mộ ông nay còn nằm ở khe nước cạnh chân núi Minh Từ thuộc xã Sơn Trung, huyện Hương Sơn. Ngày 16/10/1985, Bộ Y tế ban hành văn bản số 6083/YH về việc tổ chức lễ Kỷ niệm ngày sinh Hải Thượng Lãn Ông lần thứ 265 (1720-1985)</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: blue;">Đóng góp </span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">Hải Thượng y tông tâm lĩnh (chữ Hán: 海上醫宗心嶺, Những lĩnh hội tâm huyết về ngành Y của Hải Thượng) là một bộ sách y học nổi tiếng của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác. Bộ sách được viết vào năm 1770 bằng chữ Hán, bao gồm 28 tập, 66 quyển, bao gồm lý, pháp, phương, dược và biện chứng luận trị về nội khoa và ngoại khoa, sản phụ khoa, khoa nhi, cấp cứu... đạo đức y học, vệ sinh phòng bệnh. Hiện có 55 quyển tồn tại đến ngày nay, mất 11 quyển gồm 8 quyển Bách bệnh cơ yếu và 3 quyển Bách gia trân tàng. Bao gồm:</div><div style="text-align: justify;"><div><ul><li>Quyển đầu: <i>Y huấn cách ngôn </i>- nói về đạo đức của người làm thầy thuốc, tập thơ<i> Y lý thâu nhàn lái ngôn phụ chí </i>- những bài thơ ngâm vịnh ngẫu hứng trong lúc hành nghề và <i>Y nghiệp thần chương - </i>khái quát toàn bộ nội dung của bộ sách và mục lục sách</li><li>Quyển 1: <i>Nội kinh yếu chỉ -</i> trích những điểm thiết yếu trong bộ Hoàng đế nội kinh - Tố vấn, soạn và chú thích bảy mục: âm dương, hoá cơ, tạng phủ, bệnh nặng, trị tắc, di dưỡng và mạch kinh. <i>Vận khí bí điển </i>- là một phần của Nội kinh nhưng được ông tham khảo thêm một số sách khác như Ngọc lịch, Ngũ hành,... mà viết thành. Phần này cũng dạy cách dự đoán khí hậu các năm.</li><li>Quyển 2: <i>Y gia quan niệm/miện</i> - phân tích và tổng hợp lý luận cơ bản về âm dương, ngũ hành, kinh lạc khí huyết, chẩn đoán, mạch học, bệnh lý, trị pháp.</li><li>Quyển 3 đến 5: <i>Y hải cầu nguyên -</i> nêu lên những điểm cốt lõi, quy luật chung đề người học lấy làm nền tảng về sinh lý, bệnh lý và nguyên tắc trị liệu. </li><li>Quyển 6: <i>Huyền tẫn phát vi</i> - chuyên về thuyết "Mệnh môn", những khái niệm cơ bản về khí tiên thiên thuỷ hoả: cơ năng sinh lý, và bệnh lý của chân thủy, chân hỏa, cùng phép chữa.</li><li>Quyển 7: <i>Khôn hóa thái chân</i> - bàn về thuyết Hậu thiên tỳ vị, thuyết cơ bản liên quan đến khí huyết: cơ năng tiêu hóa và tác dụng của khí huyết, bệnh lý và phép chữa.</li><li>Quyển 8: <i>Đạo lưu dư vận</i> - biện luận và bổ sung những điểm y lý chưa rõ hay còn thiếu ở các sách xưa nhằm mục đích góp phần xây dựng học thuật</li><li>Quyển 9: <i>Nhật...</i></li><li>Quyển 10 và 11: <i>Dược phẩm Vị yếu</i> - nói về dược tính 150 vị thuốc Bắc, Nam phân loại theo ngũ hành, mỗi vị được giới thiệu về khí vị, cách dùng, cấm kỵ, nhận xét</li><li>Quyển 12 và 13: <i>Lĩnh Nam bản thảo</i> - quyển thượng chép 496 vị thuốc nam có trên đất nước ta, biên soạn theo tập Nam dược thần hiệu của Thiền sư Tuệ Tĩnh, quyển hạ chép 305 vị thuốc bổ sung, trong đó có 140 vị thuốc do ông sưu tầm. Tất cả đều diễn đạt bằng thơ Nôm.</li><li>Quyển 14: <i>Ngoại cảm thống trị</i> - nói về đặc tính bệnh ngoại cảm ở nước ta và các thuốc sáng chế để điều trị theo các thể bệnh. Ông cho rằng, trong các bệnh ngoại cảm phải luôn chú ý đến chính khí: vinh, vệ, khí, huyết, thuỷ, hoả,... Dùng thuốc chữa chính khí thêm ít vị khu tà, bệnh cũng khỏi.</li><li>Quyển 15 đến 24: <i>Bách bệnh cơ yếu - </i>bệnh học nội khoa 10 quyển, mới sưu tầm và khắc in 2 quyển Bính Đinh, còn thiếu 8 quyển: Giáp, Ất, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Đây là phần bàn sâu vào từng chứng bệnh cụ thể. Ví dụ cùng một bệnh "Tích tụ", <i>Y trung quan kiện</i> chỉ nói tóm gọn trong một trang, còn <i>Bách bệnh cơ yếu</i> bàn kỹ tới tâm trạng. Mỗi bệnh gồm các mục: nguyên nhân, cơ chế, chia thể bệnh, bàn luận cách chữa, nêu phép chữa và cách dùng thuốc.</li><li>Quyển 25:<i> Y trung quan kiện</i> - tóm gọm những điều cần thiết chữa một số bệnh thông thường. Đây có thể xem là phần đại cương về điều trị học</li><li>Quyển 26, 27: <i>Phụ đạo xán nhiên</i> - chuyên về phụ khoa</li><li>Quyển 28: <i>Tọa thảo lương mô</i> - chuyên về sản khoa, các bệnh trong thời gian ở cữ.</li><li>Quyển 29 đến 33: <i>Ấu ấu tu trị</i> - chuyên về nhi khoa, gồm 5 cuốn: Kim Mộc Thuỷ Hoả Thổ. Ông nêu lên bốn phương hạch tâm: từ bồi trĩ dương, tiếp tục vô âm, vinh dưỡng tâm can, điểu bổ tỳ phế. Ngoài phần hệ thống hoá các chương mục, ông còn viết thêm một chương "Lạc sinh".</li><li>Quyển 34 đến 43: <i>Mộng trung giác đậu</i> - chuyên về bệnh đậu mùa (10 quyển)</li><li>Quyển 44: <i>Ma chẩn chuẩn thăng</i> - chuyên về bệnh sởi, từ lý luận đến thực tiễn, từ chẩn đoán tiên lượng đến điều trị.</li><li>Quyển 45: <i>Tâm đắc thần phương</i> - gồm 170 phương thuốc chọn lọc trong sách Cẩm nang của Phùng Triệu Trương, được chú giải thêm ý nghĩa sâu sắc</li><li>Quyển 46: <i>Hiệu phỏng tân phương</i> - chép 29 phương thuốc hiệu nghiệm do Lãn Ông sáng chế trong quá trình chữa bệnh</li><li>Quyển 47, 48, 49: <i>Bách giá trân tàng</i> - ghi 664 phương thuốc kinh nghiệm thu lượm trong nhân dân và thừa kế của ngoại tổ ông là Bùi Diệm Đăng. Trong sách có ghi lại một số bài của những nhà truyền đạo từ nước ngoài tới.</li><li>Quyển 50 đến 57: <i>Hành giản trân nhu</i> - (8 quyển) chép trên 2254 phương thuốc chọn lọc trong các bản thảo đời trước, như Nam dược thần hiệu của Tuệ Tĩnh hay thu nhập trong dân gian dùng để chữa 125 bệnh đơn giản, dùng ít vị để tiện dùng trong lâm sàng.</li><li>Quyển 58: <i>Y phương hải hội</i> - gồm 248 phương thuốc xưa vốn có của người xưa mà ông đã áp dụng.</li><li>Quyển 59–60: <i>Y dương án</i> - chép 17 bệnh án chữa có kết quả, ghi lại nhiều kinh nghiệm quý giá trong việc điều trị, và <i>Y âm án</i> - chép 12 bệnh án không có kết quả, người bệnh qua đời. Đây là một việc làm hết sức độc đáo mà xưa nay ít thầy thuốc viết để lại. Trong sách, ông nêu lên nhiều điểm về đạo đức rất giá trị.</li><li>Quyển 61: <i>Châu ngọc cách ngôn</i> - thâu tóm các điều cốt yếu nhất về quy tắc chẩn đoán, biện chứng, dùng thuốc trị bệnh bằng lối văn biền ngẫu. Phần cuối có phụ lục là <i>Truyền tâm mật chỉ</i>. </li><li><i>Vệ sinh yếu quyết chuyên về dưỡng sinh, vệ sinh phòng bệnh</i> (2 quyển) - Cuốn đầu tổng hợp các thuyết kinh nghiệm của sách xưa và phương pháp nuôi dưỡng sự sống (phép dưỡng sinh). Những kiến thức đó được rút ra từ bộ Nội kinh, sách của Tôn Tư Mịch, Đào Hoàng Cảnh,..., hoặc những phép luyện khí, phòng bệnh của Đào Công Chính trong tập Bảo sinh diên thọ toàn yếu. Cuốn sau gồm các bài ca nôm nói về phép vệ sinh trong sinh hoạt hàng ngày: ăn uống, các phòng bệnh, phòng độc, giải độc, bảo dưỡng cơ thể.</li><li><i>Hành giản trân nhu bổ di </i>- được phát hiện từ các bản gỗ còn được lưu lại ở chùa Đại Tráng (nay thuộc Quế Võ, Bắc Ninh), tài liệu này bổ sung thêm 300 bài thuốc cho quyển <i>Hành giản trân nhu.</i></li><li><i>Bảo thai thần hiệu toàn thư giải âm</i> (1 quyển)</li><li><i>Nữ công thắng lãm</i> - ngắm xem tài nghệ của phụ nữ (1 quyển), có 152 mục nhỏ ghi chép cách làm các loại bánh, mứt, xôi, chè,... nấu các thức ăn chay, làm tương. Các việc trên đây cần thiết cho đời sống để nuôi sống và duy trì sức khoẻ con người. Phần sau của quyển này nói về nghề tằm tơ, canh cửi, may mặc,... đã bị mất, chưa tìm được.</li><li><i>Thượng kinh ký sự</i> - Bản bút ký kể lại hành trình của Lãn Ông lên kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán năm 1782.</li></ul></div></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: blue;">Con đường</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Tại TP. HCM: nối đường Học Lạc với Võ Văn Kiệt – quận 5</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Tại Long Xuyên – AG: nối đường Trần Bình Trọng với Trần Hưng Đạo – P. Mỹ Xuyên</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Tại Hà Nội: từ đường Phùng Hưng đến hết đường – Q. Hà Đông (với tên Lê Hữu Trác)</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Quảng Ninh: nối đường Tuệ Tĩnh với Lê Thánh Tông - TP. Hạ Long (với tên Lê Hữu Trác)</div><div style="text-align: justify;"><br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Tại Đà Nẵng: nối đường Lâm Hoành với Ngô Quyền – Q. Sơn Trà (với tên Lê Hữu Trác)</div><div style="text-align: justify;"><br /></div>
<div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" referrerpolicy="no-referrer-when-downgrade" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d5424.619907334052!2d106.65687785501281!3d10.751557173509378!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x31752ef44c736d6d%3A0x8df04a6ce2e76d2f!2zxJAuIEjhuqNpIFRoxrDhu6NuZyBMw6NuIMOUbmcsIFBoxrDhu51uZyAxMCAoUXXhuq1uIDUpLCBRdeG6rW4gNSwgVGjDoG5oIHBo4buRIEjhu5MgQ2jDrSBNaW5oLCBWaeG7h3QgTmFt!5e0!3m2!1svi!2s!4v1679740435747!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe>
<br /></div><div style="text-align: center;"><br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: red;">Thiên Linh</span></b></div>
Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-9118728316928300490.post-26669960716568184112023-04-07T16:00:00.001+07:002023-04-07T16:00:00.176+07:00DNQTĐ: Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: #b45f06; font-size: large;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjeOGV82hAYrLrdpDIYUgHQq4xuEW1_boGJCBZWSqZloRXWpIFvHbLgGunXHV3lg8_nulNLheKSD_ehwqwkjeiBfB2QzGfwHFnwWcqdYXXmBYDbX0hhvMKV8obkRXLnktKtFM089P5xws8/s960/Slide27.PNG" style="clear: right; float: right; margin-bottom: 1em; margin-left: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="300" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjeOGV82hAYrLrdpDIYUgHQq4xuEW1_boGJCBZWSqZloRXWpIFvHbLgGunXHV3lg8_nulNLheKSD_ehwqwkjeiBfB2QzGfwHFnwWcqdYXXmBYDbX0hhvMKV8obkRXLnktKtFM089P5xws8/w400-h300/Slide27.PNG" width="400" /></a></div>Phùng Khắc Khoan</span></b> - (馮克寬, 1528-1613), tự là Hoằng Phu, hiệu là Nghị Trai, Mai Nham Tử, tục gọi là Trạng Bùng (mặc dù chỉ đỗ Nhị giáp tiến sĩ, tức Hoàng giáp); là quan nhà Lê trung hưng và là nhà thơ Việt Nam. Ông là ông tổ của nghề dệt lượt và trồng bắp của Việt Nam.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: blue;">Cuộc đời</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Phùng Khắc Khoan sinh năm 1528 tại làng Bùng, Phùng Xá, Thạch Thất, Hà Nội. Tương truyền, ông là em cùng mẹ khác cha với Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thuở nhỏ, ông được cha rèn cặp, sau theo học Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tuy nổi tiếng là người có văn tài, kiêm thông cả thuật số, nhưng ông không đi thi và không chịu ra làm quan với triều Mạc.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Đầu đời vua Lê Trung Tông, ông theo Lê Bá Lỵ tham gia công cuộc phù Lê diệt Mạc. Năm Đinh Tỵ (1557), Phùng Khắc Khoan đỗ đầu khoa thi Hương ở Yên Định (Thanh Hóa) lúc 29 tuổi. Thái sư Trịnh Kiểm biết ông là người có mưu lược, có học thức uyên bác cho giữ chức Ký lục ở ngự dinh, trông coi quân dân bốn vệ, và cho tham dự việc cơ mật. </div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Từ năm 1558 – 1571, ông vâng mệnh đi các huyện chiêu dụ lưu dân về làm ăn như cũ. Khi về được thăng Cấp sự trung Binh khoa, rồi đổi sang Cấp sự trung bộ Lễ. Vì trái ý vua, ông phải giáng chức ra thành Nam thuộc Nghệ An, ít lâu sau lại được triệu về.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Năm Canh Thìn (1580) đời Lê Thế Tông, bắt đầu mở thi Hội ở Vạn Lại (Thanh Hóa), ông xin dự thi và đỗ Hoàng giáp, được thăng làm Đô cấp sự. Năm 1582, ông xin từ quan về nhà riêng ở Vạn Lại, vua cho. Song đến năm sau (1583), thì vời ông ra làm Hồng lô tự khanh.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Năm 1585, đổi ông sang làm Hữu thị lang bộ Công, rồi cử làm Thừa chính sứ Thanh Hoa (tức Thanh Hóa). Theo bài tựa Ngôn chí thi tập do ông làm năm 1586, thì chức tước của ông lúc bấy giờ là: "Công thần Kiệt tiết Tuyên lực, đặc ân Kim tử vinh lộc đại phu, làm chức Tán trị thừa chánh sứ ty các xứ Thanh Hoa". </div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Năm 1592, nhà Lê trung hưng đánh đuổi được nhà Mạc, trở về kinh đô Thăng Long. Năm 1593 Phùng Khắc Khoan được phong chức Kiệt tiết tuyên lực công thần. Năm 1595, được thăng Công bộ Tả thị lang. Năm Đinh Dậu (1597), ông đang làm Tả thị lang bộ Công và đã 69 tuổi, thì được cử làm Chánh sứ sang triều Minh (Trung Quốc). Về nước, ông được thăng làm Tả thị lang bộ Lại, tước Mai Lĩnh hầu.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Năm 1599, vua Lê Kính Tông lên nối ngôi, Phùng Khắc Khoan được thăng làm Thượng thư bộ Công. Năm 1602, thăng ông làm Thượng thư bộ Hộ, tước Mai Quận công. Ít lâu sau ông xin về quê trí sĩ, và nhiệt tình tham gia xây dựng làng xã. Đáng kể là việc ông đã tổ chức đào mương dẫn nước vào các cánh đồng quanh núi Thầy, đưa nước về tưới cho các cánh đồng Phùng Xá và Hoàng Xá.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Phùng Khắc Khoan mất năm Quý Sửu (1613), thọ 85 tuổi, được truy tặng chức Thái phó.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: blue;">Đóng góp</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Các tác phẩm bằng chữ Nôm: <i>Ngư phủ nhập Đào nguyên</i> (Truyện người đánh cá vào suối hoa đào, đã thất lạc), <i>Lâm tuyền vãn</i> (Bài vãn ca cảnh nơi rừng suối, 185 câu lục bát), <i>Chu Dịch quốc âm ca</i> (Sách diễn nghĩa về kinh Dịch, đã thất lạc). Ngoài ra, ông còn để lại một vài bài tựa (viết cho một vài tập thơ), và văn bia. </div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Các tác phẩm bằng chữ Hán: <i>Ngôn chí thi tập</i> (Tập thơ nói chí, gồm 7 tập 260 bài thơ được viết trong 70 năm, hiện tại chỉ còn 5 tập), <i>Huấn Đồng thi tập</i> (Tập thơ dạy trẻ, gồm 172 bài vịnh về thiên nhiên để dạy trẻ, chỉ còn 30 bài thơ), <i>Đa thức tập</i> (Tập thơ biết nhiều, cung cấp kiến thức thường thức, chỉ còn 100 bài thơ), <i>Mai Lĩnh sứ hoa thi tập</i> (Tập thơ đi sứ qua cửa Mai Lĩnh), <i>Tây Hồ quan ngư</i> (Xem cá Hồ Tây, vô tình gặp được Mẫu Liễu Hạnh),…</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Ngoài ra, trong lần đi sứ Trung Quốc ông đã đem về được giống bắp ngô quý giá cho nhân dân trong nước trồng nên ông được tôn làm ông tổ của nghề trồng bắp ngô của Việt Nam. Ông cũng truyền dạy nghề dệt lược ở quê hương</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: blue;">Con đường</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Tại TP. HCM: nối đường Điện Biên Phủ với Nguyễn Thị Minh Khai – quận 1</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Tại Đà Nẵng: nối đường Mai Hắc Đế với Nguyễn Văn Siêu – Q. Sơn Trà</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Khánh Hoà: nối đường Tản Viên với Lê Hồng Phong - TP. Nha Trang</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Nghệ An: nối đường Nguyễn Gia Thiều với Nguyễn Phong Sắc - TP. Vinh</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Tại Hà Nội: nối đường Hoà Mã với Trần Nhân Tông – Q. Hai Bà Trưng</div><div style="text-align: justify;"><br /></div>
<div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" referrerpolicy="no-referrer-when-downgrade" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d3919.326749996831!2d106.69621412471105!3d10.786266976670262!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x31752f344c916d05%3A0x2ef8464540d6ec8c!2zxJAuIFBow7luZyBLaOG6r2MgS2hvYW4sIFF14bqtbiAxLCBUaMOgbmggcGjhu5EgSOG7kyBDaMOtIE1pbmgsIFZp4buHdCBOYW0!5e0!3m2!1svi!2s!4v1679739870359!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe>
<br /></div><div style="text-align: center;"><br /></div><div style="text-align: center;">---</div><div style="text-align: center;"><br /></div>
<div style="text-align: justify;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiGC7-MplxGSK3pWsmB_81rfJNGsZItQmsQZfTdWqjbV3N779qzLaoQxfW1idz0fbJaO0jOjqr9xKyCPmSTjVJYv4WglJva0ka75vC619yVxP5n49ae3hpLmltrW6QJBkCG3D2ox_vEBc8/s960/Slide28.PNG" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="300" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiGC7-MplxGSK3pWsmB_81rfJNGsZItQmsQZfTdWqjbV3N779qzLaoQxfW1idz0fbJaO0jOjqr9xKyCPmSTjVJYv4WglJva0ka75vC619yVxP5n49ae3hpLmltrW6QJBkCG3D2ox_vEBc8/w400-h300/Slide28.PNG" width="400" /></a></div>
<b><span style="color: #b45f06; font-size: large;">Nguyễn Dư</span></b> (阮餘, ?-?), thường được gọi là <b>Nguyễn Dữ</b> (阮與), là một danh sĩ thời Lê sơ, thời nhà Mạc và là tác giả sách Truyền kỳ mạn lục, một tác phẩm truyền kỳ nổi tiếng tại Việt Nam.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: blue;">Cuộc đời</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Nguyễn Dư là người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân nay là xã Phạm Kha, huyện Thanh Miện, Hải Dương. Ông là con trai cả Tiến sĩ Nguyễn Tường Phiêu(*). Chưa rõ Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào. Tương truyền ông là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm và bạn học của Phùng Khắc Khoan, tức là vào khoảng thế kỷ 16. Tuy nhiên mối quan hệ giữa ba người vẫn còn là một ẩn sổ.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Lúc nhỏ Nguyễn Dư chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến (tức Cử nhân), ông làm quan với nhà Mạc, rồi về với nhà Lê làm Tri huyện Thanh Tuyền (nay là Bình Xuyên, Vĩnh Phú); nhưng mới được một năm, vì bất mãn với thời cuộc, lấy cớ nuôi mẹ, xin về ở núi rừng Thanh Hóa. Từ đó trải mấy năm dư, chân không bước đến thị thành. Sau đó, mất tại Thanh Hóa.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">(*): Nguyễn Tường Phiêu/Phiên (?-?) đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân năm Hồng Đức 27 (1496) đời Lê Thánh Tông; làm quan đến Thừa chánh sứ. Sau khi mất được tặng chức Thượng thư, phong phúc thần.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<span style="color: blue;"><b>Đóng góp</b></span></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Sáng tác duy nhất của ông là quyển <b>Truyền kỳ mạn lục</b> (Ghi chép tản mạn những truyện kì lạ được lưu truyền). Sách gồm 20 truyện, viết bằng chữ Hán, theo thể loại tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện (trừ truyện 19 Kim hoa thi thoại ký) đều có lời bình của tác giả hoặc của một người có cùng quan điểm của tác giả. Tác phẩm được Hà Thiện Hán, người cùng thời, viết lời Tựa, Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính, Nguyễn Thế Nghi dịch ra chữ Nôm; và đã được Tiến sĩ Vũ Khâm Lân (1702-?), đánh giá là một "thiên cổ kỳ bút".</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: blue;">Con đường</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Tại Đà Nẵng: nối đường Nguyễn Đăng Đạo với Nguyễn Hữu Thọ - Q. Cẩm Lệ</div>
<div style="text-align: justify;">
<b style="color: red;"><br /></b></div><div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" referrerpolicy="no-referrer-when-downgrade" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d2002.1865520349043!2d108.20822560982207!3d16.034290426901453!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x314219922b2a6367%3A0xd453bd674bbe2326!2zTmd1eeG7hW4gROG7rywgS2h1w6ogVHJ1bmcsIEPhuqltIEzhu4csIMSQw6AgTuG6tW5nIDU1MDAwMCwgVmnhu4d0IE5hbQ!5e0!3m2!1svi!2s!4v1679739833730!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe></div><div style="text-align: center;"><br /></div><div style="text-align: justify;">
<b style="color: red;">Thiên Linh</b></div>
Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-9118728316928300490.post-74458236858656917822023-04-05T15:30:00.001+07:002023-04-05T15:30:00.170+07:00DNQTĐ: Vũ Kiệt, Vũ Tuấn Chiêu, Phạm Đôn Lễ<div style="text-align: justify;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEim9ClUA12ajAuZtsxJXjop6AqpG-Q-Hxc1b8p7qfml2pMBQAG2FjpUvWjick6DvnvXPhZKjvSHcXsQBPnE1OpOr7zRm85bIVSwWbTeySUHZdQjTKlvZdnTjEtoWNVmZGwjAvZJmoJ8FkY/s960/Slide41.PNG" style="clear: right; float: right; margin-bottom: 1em; margin-left: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="300" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEim9ClUA12ajAuZtsxJXjop6AqpG-Q-Hxc1b8p7qfml2pMBQAG2FjpUvWjick6DvnvXPhZKjvSHcXsQBPnE1OpOr7zRm85bIVSwWbTeySUHZdQjTKlvZdnTjEtoWNVmZGwjAvZJmoJ8FkY/w400-h300/Slide41.PNG" width="400" /></a></div><b><span style="color: green; font-size: large;">Vũ Kiệt</span><span style="color: #b45f06; font-size: large;"> </span></b>- 武傑 (1452 - ?), người xã Yên Việt, huyện Siêu Loại, Kinh Bắc (nay là xã Ngũ Thái, Thuận Thành, Bắc Ninh). Ông đỗ đầu đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ (tức Trạng nguyên) vào khoa tháng tư năm Nhâm Thìn (1472), đời Lê Thánh Tông. Do ngôi làng quê ông có tên Nôm là làng Vít nên dân gian quen gọi Vũ Kiệt là Trạng Vít. Vũ Kiệt làm quan tới Hàn lâm viện thị thư, Tả thị lang kiêm Đông các hiệu thư.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><span style="color: #0b5394;"><b>Giai thoại</b></span></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><div>Theo sách Văn hiến Kinh Bắc, bài "<i>Văn sách thi đình</i>" của Vũ Kiệt được triều đình coi như kiệt tác nói về sách lược trị nước, an dân, được lưu truyền làm mẫu cho các sĩ tử sau này học tập. Vũ Kiệt đã vượt qua đề thi “Đế vương trị thiên hạ” của nhà vua với bài viết dài hơn chục nghìn chữ, vượt xa mức quy định tối thiểu ba nghìn chữ. Trong phạm vi bài văn, ông thể hiện được tài kinh bang tế thế, nhìn xa trông rộng của bản thân, đồng thời đưa ra những biện pháp giải quyết nhiều vấn đề lớn của xã hội lúc bấy giờ.</div><div><br /></div><div>Chẳng hạn, phần nói về giáo dục, nhà vua đã hỏi: Sách xưa có câu thầy nghiêm thì việc học đạo mới được tôn kính. Nhưng hiện tại, nho sinh lại cảm thấy xấu hổ khi đến học thầy, cốt làm những chuyện họa may hoặc qua tuần, qua tháng lại đổi thầy. Một nho sinh mà chưa bao giờ biết gò mình trong việc tu chỉnh, khi đạt được danh vọng ở triều đình thì ít tuân theo lễ nghĩa. Đạo làm thầy bị bỏ rơi sao mà lâu thế, làm thế nào để cứu vãn được? Vũ Kiệt trả lời rằng: “Thần nghe, cái học của người xưa nhất thiết phải có thầy, người thầy làm nhiệm vụ truyền đạo, thụ nghiệp nêu lên những chỗ nhầm lẫn, giải thích những điều tôn nghi trong sách vở. Các ngành, nghề, ngay cả những nghề vụn vặt cũng không thể không có thầy được, huống hồ người theo học đạo Nho". Ông nói rằng kẻ sĩ phải thấy mình được vinh hạnh, càng chăm lo việc thực học. Lúc chưa thành đạt thì sống theo đạo lý thông thường để chờ thời gặp mệnh, không để mất phẩm chất riêng. Lúc đã được tin dùng thì phải giữ đúng danh vị và làm việc thực sự, không thể để mất cái điều mà mình mong muốn. </div><div><br /></div><div>Ông cũng nêu những tồn tại của giáo dục lúc bấy giờ: Cũng có khá nhiều người làm thầy tư chất kém cỏi, văn vẻ vụng về. Cái mà học trò cần là sự uyên bác nhưng người thầy lại có kẻ nông xoàng, tài cán thô thiển. "Đạo làm thầy không vững như thế còn lạ gì khi thấy sĩ tử xấu hổ việc đi học... Tâm thật đã mất trước khi ra làm quan rồi, sau khi ra làm quan còn tìm sao được tiết tháo và phong độ của họ...”, Vũ Kiệt nêu vấn đề. Trạng nguyên Vũ Kiệt còn vạch ra hướng để khắc phục những tồn tại ấy: “Thần mong bệ hạ đạo làm thầy phải được tuyển chọn kỹ càng. Việc nuôi dạy sĩ tử phải đúng hướng... Tìm nhân tài trước hết phải chú ý đến mặt đức hạnh, phế truất kẻ phù hoa... Người dùng lời gian dối để trau chuốt, dứt khoát không dùng. Người dám nói thẳng... thì có thể thu nhận”.</div></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: #0b5394;">Con đường</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Tại Bắc Ninh: nối đường Nguyễn Gia Thiều với TL 295B – tph. Bắc Ninh</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại TP. HCM: nối đường Ngô Miễn Thiệu với Vĩnh Lộc - Bình Chánh</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" referrerpolicy="no-referrer-when-downgrade" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d2831.93868666521!2d106.55468432717238!3d10.799985911240348!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x31752b5e5ab59517%3A0x45a52756f45ab22c!2zVsWpIEtp4buHdCwgVsSpbmggTOG7mWMgQiwgQsOsbmggQ2jDoW5oLCBUaMOgbmggcGjhu5EgSOG7kyBDaMOtIE1pbmgsIFZp4buHdCBOYW0!5e0!3m2!1svi!2s!4v1679669052051!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe></div><div style="text-align: center;"><br /></div><div style="text-align: center;">---</div><div style="text-align: center;"><br /></div>
<div style="text-align: justify;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgVuHxOTwGYXpPweEI91ia0dXWXCpoPN6VwQqSmT4x169R5RoX2QBiZ741PTHbLO9j9Re4vvUNF0znsxSMKbCO4NZWWHrXv2LnhCnEe5_XMBF4GyBKEE7vq-pPZhV_ydGG7ywSstoQCeDU/s960/Slide40.PNG" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="300" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgVuHxOTwGYXpPweEI91ia0dXWXCpoPN6VwQqSmT4x169R5RoX2QBiZ741PTHbLO9j9Re4vvUNF0znsxSMKbCO4NZWWHrXv2LnhCnEe5_XMBF4GyBKEE7vq-pPZhV_ydGG7ywSstoQCeDU/w400-h300/Slide40.PNG" width="400" /></a></div>
<b><span style="color: #38761d; font-size: large;">Vũ Tuấn Chiêu</span></b> - 武濬昭 (1426 - ?) nguyên quán xã Cổ Liễu, (nay thuộc xã Nam Hùng, Nam Trực, Nam Định), sinh sống ở làng Nhật Chiêu (nay thuộc phường Nhật Tân, Tây Hồ, Hà Nội). Ông đỗ Trạng nguyên khoa thi năm Ất Mùi (1475), đời vua Lê Thánh Tông. Ông làm quan đến Tả Thị lang Bộ Lại dưới triều Lê. </div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Ông cùng Nguyễn Đức Lượng và Nguyễn Xuân Chính là ba vị Trạng nguyên già nhất khi đỗ trạng ở tuổi 50. Ngày trước, ông mặt mũi sáng sủa nhưng học mãi không xong, nhờ vợ là bà Chìa động viên rằng: "Nước chảy lâu ngày đã làm mòn những cột đá của cây cầu. Chàng thấy đấy, cột đá là vật cứng rắn, dòng nước mềm nhưng qua năm tháng cứ chảy mãi lâu ngày khiến cho đá cũng phải mòn. Do vậy, làm việc gì nếu có chí, sự kiên trì, nhẫn nại tất sẽ thành". Nghe lời vợ nói, Vũ Tuấn Chiêu chợt tỉnh ngộ như đám mây mù trước mắt được xua tan. Ông liền bảo vợ trở về nhà, còn mình mang sách vở, quần áo trở lại nhà thầy đồ xin tiếp tục theo học. Rồi sau đó đã đỗ Trạng nguyên.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: #0b5394;">Con đường</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Tại Hà Nội: nối phố Nhật Chiêu với Âu Cơ – Q. Tây Hồ</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Tại Nam Định: nối đường Trần Văn Bảo với Phạm Ngũ Lão – tph. Nam Định</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" referrerpolicy="no-referrer-when-downgrade" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d3722.918384225354!2d105.81727719071121!3d21.07592171203157!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x3135aaedd8e6be99%3A0x431e1484a35e2b4e!2zUC4gVsWpIFR14bqlbiBDaGnDqnUsIE5o4bqtdCBUw6JuLCBUw6J5IEjhu5MsIEjDoCBO4buZaSwgVmnhu4d0IE5hbQ!5e0!3m2!1svi!2s!4v1679669313915!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe></div><div style="text-align: center;"><br /></div><div style="text-align: center;">---</div><div style="text-align: center;"><br /></div>
<div style="text-align: justify;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjzvi8KSIRSTmdUy5cxK5Eaqs5n0eJpo_paAY1ZiGK22S4-3h8r8iPGIyhrvTsiWsXeA5aF_Lh1S8AidYwmSL4_i8w5avRK9SzQJOGSVVRIJKjUiPTOgEInojAps8xx8Sn5-_tNE8EWLxI/s960/Slide42.PNG" style="clear: right; float: right; margin-bottom: 1em; margin-left: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjzvi8KSIRSTmdUy5cxK5Eaqs5n0eJpo_paAY1ZiGK22S4-3h8r8iPGIyhrvTsiWsXeA5aF_Lh1S8AidYwmSL4_i8w5avRK9SzQJOGSVVRIJKjUiPTOgEInojAps8xx8Sn5-_tNE8EWLxI/s320/Slide42.PNG" width="320" /></a></div>
<b><span style="color: green; font-size: large;">Phạm Đôn Lễ</span></b> - 范敦禮 (1457 - 1531), là Trạng nguyên khoa thi năm Tân Sửu (1481), đời Lê Thánh Tông. Người ta thường gọi ông là Trạng Chiếu hay Tam nguyên Đôn Lễ. Ông là quan lại của nhà Lê sơ, và được phong là ông tổ nghề dệt chiếu.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: blue;">Tiểu sử</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Phạm Đôn Lễ có tên tự là Lư Khanh, quê gốc ở Tứ Kỳ, Hải Dương nhưng sinh sống ở làng Hải Triều (tục gọi là làng Hới) (nay thuộc xã Tân Lễ, Hưng Hà, Thái Bình). Ông đỗ đầu cả ba kỳ: thi Hương, thi Hội và thi Đình nên gọi là Tam nguyên. Tại trường thi Đình, ông đỗ chính danh Trạng nguyên khoa Tân Sửu (1481), niên hiệu Hồng Đức 12, đời vua Lê Thánh Tông. </div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Ông làm quan đến các chức Tả thị lang, rồi Thượng Thư đời vua Lê Thánh Tông. Sau đó được cử đi sứ sang nhà Minh (Trung Quốc). Khi về nước, ông đã đem các kỹ thuật dệt chiếu tiên tiến mà ông học được ở Quế Lâm tỉnh Quảng Tây Trung Quốc, về truyền bá cho dân làng Hải Triều và dân các làng miền duyên hải trấn Sơn Nam Hạ. Trước đó dân miền biển thường dệt chiếu với bàn dệt không có ngựa đỡ. Với kỹ thuật dệt chiếu với bàn dệt nằm có ngựa đỡ sợi (sợi đay) học được của người Trung Quốc, ông đã giúp người dân quê hương dệt ra những loại chiếu đẹp hơn, nhanh hơn. Sợi đay được căng trên ngựa đỡ, thuận lợi cho người trao chiếu (tức là trao cói), đẩy nhanh được tốc độ dệt chiếu. Chính nhờ cải cách này nghề dệt chiếu thủ công ở vùng ven biển miền Bắc trở nên phát triển, làng Hải Triều thành làng dệt chiếu nổi tiếng. Khi từ quan, ông về ở và dạy học tại làng Mỹ Xá, (nay thuộc Hải Dương). Tại khu đất Đồng Cời thuộc xã Ngọc Sơn hiện nay có lăng mộ thờ Trạng nguyên Phạm Đôn Lễ.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: blue;">Con đường</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Tại TP.HCM: nối đường số 102 với Đàm Văn Lễ – TP. Thủ Đức</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Thái Bình: nối đường Lý Bôn với Lê Quý Đôn - TP. Thái Bình</div><div style="text-align: justify;"><br /></div>
<div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" referrerpolicy="no-referrer-when-downgrade" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d2832.2244343518782!2d106.76579106619837!3d10.76963737803431!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x317525cc74ca2eb9%3A0x79374444b94a421e!2zUGjhuqFtIMSQw7RuIEzhu4UsIFRo4bqhbmggTeG7uSBM4bujaSwgUXXhuq1uIDIsIFRow6BuaCBwaOG7kSBI4buTIENow60gTWluaCwgVmnhu4d0IE5hbQ!5e0!3m2!1svi!2s!4v1679669371314!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe>
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: red;">Thiên Linh</span></b></div>
Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-9118728316928300490.post-73302798502552359602023-04-01T12:00:00.004+07:002023-04-01T12:00:00.168+07:00DNQTĐ: Thiền sư Tuệ Tĩnh<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: #b45f06; font-size: large;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi-ZazP4u780w9ZIu5PLth3vBxmw2Tgy01mq92lgGaRw0rntLxL3iQCmVO0FHlcjdk3DcPPPKXWrUkv2iaOOVlOz3KT8Oukz4LV4xu4guatkRnKS0twilHTLFFSOgRw8SvAA1DfOrPRCxo/s960/Slide30.PNG" style="clear: right; float: right; margin-bottom: 1em; margin-left: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi-ZazP4u780w9ZIu5PLth3vBxmw2Tgy01mq92lgGaRw0rntLxL3iQCmVO0FHlcjdk3DcPPPKXWrUkv2iaOOVlOz3KT8Oukz4LV4xu4guatkRnKS0twilHTLFFSOgRw8SvAA1DfOrPRCxo/s320/Slide30.PNG" width="320" /></a></div>Tuệ Tĩnh thiền sư </span></b>- 慧靜禪師 (1330 - 1400) là một thiền sư và thầy thuốc sống ở giai đoạn cuối thời Trần. Ông chủ trương phương pháp “Nam dược trị Nam nhân – thuốc Nam chữa bệnh người Nam”, sau được hậu thế suy tôn là ông tổ của ngành thuốc Nam và nền y học Việt Nam. Ngoài ra, ông cũng đặt nền móng cho ngành thú y Việt Nam.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: blue;">Tiểu sử</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Thiền sư Tuệ Tĩnh có tên thật là <b>Nguyễn Bá Tĩnh</b> (阮伯靜), tự Linh Đàm (靈潭), hiệu Tráng Tử Vô Dật (壯子無逸), Hồng Nghĩa (紅義), quê ở Nghĩa Phú, Cẩm Vũ, Cẩm Giàng, Hải Dương.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Mồ côi cha mẹ từ lúc 6 tuổi, Nguyễn Bá Tĩnh được các nhà sư chùa Hải Triều và chùa Giao Thủy nuôi cho ăn học. Năm 22 tuổi, ông đậu Thái học sinh dưới triều vua Trần Dụ Tông, nhưng không ra làm quan mà ở lại chùa đi tu lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh. Những ngày đi tu cũng là những ngày ông chuyên học thuốc, làm thuốc, chữa bệnh cứu người.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Năm 55 tuổi (1385), với trí tuệ uyên bác trong ngành y thuật của mình, Tuệ Tĩnh bị đưa đi cống cho triều đình nhà Minh. Sang Trung Quốc, ông vẫn làm thuốc, nổi tiếng, được vua Minh phong là Đại y Thiền sư. Ông qua đời tại Giang Nam, Trung Quốc.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Tuệ Tĩnh xót thương cho số phận của mình và luôn đau đáu nỗi niềm một ngày được quay lại quê hương, thoát khỏi cảnh đất khách quê người thể hiện qua việc ông đã khóc trong lễ nhậm chức của mình tại triều đình nhà Minh và cho tới ngày nay, trên bia mộ của ông vẫn còn dòng chữ "Ai về nước Nam cho tôi về với". Năm 1690 tiến sĩ Nguyễn Danh Nho đi sứ sang Trung Hoa, tình cờ thấy mộ Tuệ Tĩnh, nhận ra là người cùng làng. Cảm động với lời nhắn gửi thiết tha của vị danh y, tiến sĩ Nguyễn Danh Nho đã sao chép bia mộ và tạc khắc bia đá mang về quê Hải Dương bây giờ.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: blue;">Đóng góp</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Ông đã tổng hợp y dược dân tộc cổ truyền trong bộ sách giá trị là bộ <i>Nam dược thần hiệu</i> chia làm 10 khoa. Đặc biệt, ông có bộ <i>Hồng Nghĩa giác tư y thư</i> (2 quyển) biên soạn bằng quốc âm, trong đó có bản thảo 500 vị thuốc nam, viết bằng thơ Nôm Đường luật, và bài "<i>Phú thuốc Nam</i>" 630 vị cũng bằng chữ Nôm.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Từ bao đời nay, giới y học Việt Nam và nhân dân đều công nhận Tuệ Tĩnh có công lao to lớn trong việc xây dựng một quan điểm y học độc lập, tự chủ, sát với thực tế Việt Nam. Câu nói của ông: "Nam dược trị Nam nhân" thể hiện quan điểm đầy biện chứng về mối quan hệ mật thiết giữa con người với môi trường sống xung quanh. Quan điểm ấy dẫn dắt ông lên ngôi vị cao nhất của nền y học cổ truyền Việt Nam: Ông Thánh thuốc Nam! Trong trước tác của mình, ông không rập khuôn theo các trước tác của các đời trước, Ông không đưa kim, mộc, thủy, hỏa, thổ lên đầu mà xếp các cây cỏ trước tiên! Ông cũng phê phán tư tưởng dị đoan của những người chỉ tin vào phù chú mà không tin thuốc. Ông đã nêu ra nhiều phương pháp khác nhau để chữa bệnh như: châm, chích, chườm, bóp, xoa, ăn, uống, hơ, xông, v.v.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">Theo một số tài liệu, Thiền sư Tuệ Tĩnh đã xây dựng 24 ngôi chùa, biến các chùa này thành y xá chữa bệnh. Ông tập hợp nhiều y án: 182 chứng bệnh được chữa bằng 3.873 phương thuốc. Ông cũng luôn luôn nhắc nhở mọi người chú ý nguyên nhân gây bệnh, tìm biện pháp phòng bệnh tích cực. Tuệ Tĩnh nhấn mạnh tác dụng việc rèn luyện thân thể và sinh hoạt điều độ. Ông nêu phương pháp dưỡng sinh tóm tắt trong 14 chữ: “<i>Bế tinh, dưỡng khí, tồn thần. Thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện hình</i>”. Tuệ Tĩnh còn tập hợp những bài thuốc chữa bệnh cho gia súc. Có thể nói, ông đã góp phần đặt cơ sở cho ngành thú y dân tộc của Việt Nam.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: blue;">Con đường</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: blue;"><br /></span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
Tại TP. HCM: chạy vòng cung trong chợ Phú Thọ, hai đầu đều thông ra đường Tôn Thất Hiệp – quận 11</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Tại Hà Nội: nối đường Huế với Nguyễn Đình Chiểu – Q. Hai Bà Trưng</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Đà Nẵng: nối đường Phan Châu Trinh với Trưng Nữ Vương - Q. Hải Châu</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Thanh Hoá: nối đường Lạc Long Quân với Quang Trung - TP. Thanh Hoá</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Hải Dương: nối ngã tư Chi Lăng - Nguyễn Trãi với Ngô Quyền - TP. Hải Dương</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Tại Khánh Hoà: nối đường Nguyễn Thiện Thuật với Trần Phú – tph. Nha Trang</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div><div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" referrerpolicy="no-referrer-when-downgrade" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d2381.6607568460267!2d106.65351135699775!3d10.762833695877196!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x31752eecc37d48ad%3A0xad8fe8590ca3f28!2zVHXhu4cgVMSpbmgsIHBoxrDhu51uZyAxMywgUXXhuq1uIDExLCBUaMOgbmggcGjhu5EgSOG7kyBDaMOtIE1pbmgsIFZp4buHdCBOYW0!5e0!3m2!1svi!2s!4v1679668351691!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe></div><div style="text-align: center;"><br /></div><div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: red;">Thiên Linh</span></b></div>
Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-9118728316928300490.post-76816542453019900922023-03-25T07:30:00.003+07:002023-03-25T07:30:00.147+07:00DNQTĐ: Đào Sư Tích<div style="text-align: justify;">
<span style="color: #38761d; font-size: large;"><b><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjEs6sj9kmTbSmxSjx9s8iXh6awxt6ynsj7FK_-u82dmoUAcplQZ3Qd6g-5d_dGsHqxKTiPwcQVyo48KB-_kZImTkwP2iLzQhZoNz7s49ude_s0mEKZrF7UWAoX0VBwL6m3Y-tfysNk29k/s960/Slide4.PNG" style="clear: right; float: right; margin-bottom: 1em; margin-left: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="300" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjEs6sj9kmTbSmxSjx9s8iXh6awxt6ynsj7FK_-u82dmoUAcplQZ3Qd6g-5d_dGsHqxKTiPwcQVyo48KB-_kZImTkwP2iLzQhZoNz7s49ude_s0mEKZrF7UWAoX0VBwL6m3Y-tfysNk29k/w400-h300/Slide4.PNG" width="400" /></a></div>Đào Sư Tích</b></span> - 陶師錫, (1348 - 1396), người làng Cổ Lễ, huyện Nam Chân (sau đổi là huyện Trực Ninh), phủ Thiên Trường. Nay thuộc tỉnh Nam Định. Ông đỗ trạng nguyên khoa Giáp Dần niên hiệu Long Khánh thứ 2 (1374), đời Trần Duệ Tông. Đào Sư Tích làm quan trải ba đời vua Trần Duệ Tông (1373 - 1377), Trần Phế Đế (1377 - 1388) và Trần Thuận Tông (1388-1398).</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: #0b5394;">Cuộc đời </span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Đào Sư Tích sinh năm Mậu Tý (1348) là con trai Tiến sĩ Đào Toàn Bân đỗ tiến sĩ chính bảng làm quan chức tri Thẩm hình viện sự. Nguyên quán ông là làng Song Khê, xã Song Khê, huyện Yên Dũng, Tỉnh Bắc Giang, nhưng sau này ông dời nhà lên ở xã Lý Hải, huyện An Lãng, phủ Tam Đái thuộc Sơn Tây (nay là thôn Lý Hải, xã Phú Xuân, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc). </div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Từ nhỏ Đào Sư Tích đã tỏ ra thông minh khác người, lực học vượt đồng môn, lại có tài ứng đối và năng khiếu về thơ phú. Ở khoa thi Hương, Đào Sư Tích đỗ danh sách thứ nhất (Hương nguyên). Vào thi Hội, thi Đình ông đều đỗ thứ nhất: Đình Nguyên, Trạng nguyên khoa Giáp Dần niên hiệu Long Khánh đời vua Trần Duệ Tông (1374).</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Tháng 5 năm 1381, ông được lấy làm Tả tư lang trung, Nhập nội hành khiển. Tháng 12 năm 1383, vua Phế Đế sai ông đề tựa ở đầu sách "Bảo Hòa [điện] dư bút". Tháng 12 năm 1392, thời Trần Thuận Tông, ông bị giáng xuống Trung tư thị lang, Tri thẩm hình viện sự, do Quốc tử trợ giáo Đào Xuân Lôi khai rằng ông có xem bức thư của chính Xuân Lôi dâng lên nhà vua để phê phán sách Minh đạo của Hồ Quý Ly. Chán cảnh nghịch thần chuyên quyền ông cáo quan về quê mở nghề làm thuốc và dạy học. </div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Năm 1394 nhà Minh có nhiều yêu sách, gây khó khăn nhằm xâm chiếm nước ta, bắt cống nạp nhiều lễ vật. Với tài năng của mình, Đào Sư Tích đã thuyết phục được vua Minh xoá bỏ được các lệ cống nạp hàng năm giữa nước Việt với nhà Minh.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Ngày 4-9 năm Bính Tý (1396) Đào Sư Tích qua đời đột ngột trong thời gian đi sứ, thọ 49 tuổi. Thi hài ông được đưa về nước mai táng tại Phủ Thiên Trường. Sau khi mất, ông được dân xã Cổ Lễ lập đền thờ tại nguyên quán, gọi là Đào Sư Tích Từ. Ngày nay, tại chùa Cổ Lễ có tấm bia nhị Đào công từ bi (bia về đền thờ hai cha con ông họ Đào) chép về công việc ấy. Tại làng Lý Hải, ông được cũng thờ ở Miếu quốc tế (Miếu được cả nước tế tự) và được xếp là bậc danh hiền, phong phúc thần.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><div><i>Văn phẩm của Đào Sư Tích để lại hiện còn có: </i></div><div>- Bài văn Đình đối của ông trong kì thi khoa Giáp Dần năm 1374. Đây cũng là bài văn thi Đình duy nhất của các khoa thi Đình đời Trần còn được ghi chép lại. </div><div>- Bài <i>Cảnh tinh phú</i> (phú sao Cảnh) chép trong Quần hiền phú tập (là tập phú của các danh sĩ các đời từ Trần, Hồ và Lê, do ông Nguyễn Thiên Túng viết bài tựa biên năm Diên Ninh Đinh Sửu (1459))</div></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: #0b5394;">Con đường </span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: #0b5394;"><br /></span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
Tại TP. Hồ Chí Minh: nối đường Lê Văn Lương với bến đò Bảy Bé - huyện Nhà Bè</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Tại Đà Nẵng: nối đường Hoàng Văn Thái với Hòa Nam - quận Liên Chiểu</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Tại Bình Dương: nối tỉnh lộ 743A với đường Thống Nhất - tph. Dĩ An</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Vĩnh Phúc: nối đường Đỗ Huy Thiều với Đinh Tiên Hoàng - TP. Vĩnh Yên</div><div style="text-align: justify;"><br /></div>
<div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" referrerpolicy="no-referrer-when-downgrade" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d27540.808844271018!2d106.69415205162099!3d10.703946889276626!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x317530265fe06f47%3A0x7b6808b7594b8e39!2zxJAuIMSQw6BvIFPGsCBUw61jaCwgTmjDoCBCw6gsIFRow6BuaCBwaOG7kSBI4buTIENow60gTWluaCwgVmnhu4d0IE5hbQ!5e0!3m2!1svi!2s!4v1679667687279!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe>
<br /></div><div style="text-align: center;"><br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: red;">Thiên Linh</span></b></div>
Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-9118728316928300490.post-11043796926711131572023-03-03T13:30:00.001+07:002023-03-24T21:10:50.505+07:00DNQTĐ: Trần Cố - Bạch Liêu - Đào Tiêu<div style="text-align: justify;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiHu5IgDbaI17fwl7AI0II1k6t3i5_zcq3EEN7d71LuHpH28HyJxYpAwRMj0G6Lt-CQ94Emt4AN_ifu54oO6-NZi4WnMuXhK3YF8a1VmvCm3aI7g6IMTn92P5d9Wl6srrE9SYfmZwBd3qo/s960/Slide9.PNG" style="clear: right; float: right; margin-bottom: 1em; margin-left: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="300" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiHu5IgDbaI17fwl7AI0II1k6t3i5_zcq3EEN7d71LuHpH28HyJxYpAwRMj0G6Lt-CQ94Emt4AN_ifu54oO6-NZi4WnMuXhK3YF8a1VmvCm3aI7g6IMTn92P5d9Wl6srrE9SYfmZwBd3qo/w400-h300/Slide9.PNG" width="400" /></a></div><b><span style="color: #38761d; font-size: large;">Trần Cố</span></b> - 陳固, (? - ?), người xã Phạm Triền, huyện Thanh Miện, phủ Hạ Hồng (nay là thôn Phạm Lý, xã Ngô Quyền, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương), đỗ Kinh trạng nguyên khoa Bính Dần, năm Thiệu Long thứ 9 (1266), đời Trần Thánh Tông, cùng khoa với Trại trạng nguyên Bạch Liêu. Ông làm quan đến chức Hiến sát sứ.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Theo tài liệu "Lý Chiêu Hoàng - Một đời sóng gió" của Lê Thái Dũng, Trần Cố được gả cho Ứng Thụy Công chúa Lê Khuê, con gái của Lý Chiêu Hoàng và Bảo Văn hầu Thiếu sư Lê Phụ Trần, em gái của Thượng vị hầu Lê Tông.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Con đường</span></b></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Hải Dương: nối phố Hải An với Nguyễn Thị Minh Lý - Thanh Miện</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"></div>
<div style="text-align: center;"> <iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" referrerpolicy="no-referrer-when-downgrade" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d855.1152761698407!2d106.23974643412197!3d20.78968609820092!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x313596a61a428bad%3A0x28af831105f963bd!2zVHLhuqduIEPhu5EsIHR0LiBUaGFuaCBNaeG7h24sIFRoYW5oIE1p4buHbiwgSOG6o2kgRMawxqFuZywgVmnhu4d0IE5hbQ!5e0!3m2!1svi!2s!4v1679666611732!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe>
<br /></div><div style="text-align: center;"><br /></div><div style="text-align: center;">---</div><div style="text-align: center;"><br /></div>
<div style="text-align: justify;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgLNm4-GRzf9LiusuwGFvQo5dp0F58NO1iGHl0X60wOPs84sEfPL2CavtpqiQovq1g-eyXeF3qL4ZHDBVTvNFaV1X1qe1hkckIgKsYiXLeekFbkeJbIYO9HJYDKy8s1TYi2VmkL_lM1oZ0/s960/Slide10.PNG" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="300" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgLNm4-GRzf9LiusuwGFvQo5dp0F58NO1iGHl0X60wOPs84sEfPL2CavtpqiQovq1g-eyXeF3qL4ZHDBVTvNFaV1X1qe1hkckIgKsYiXLeekFbkeJbIYO9HJYDKy8s1TYi2VmkL_lM1oZ0/w400-h300/Slide10.PNG" width="400" /></a></div>
<b><span style="color: #38761d; font-size: large;">Bạch Liêu</span></b> - 白遼 (1236 - 1315), hoặc Bạch Liên. Người làng Yên Xá (nay là xã Mã Thành, Yên Thành, Nghệ An). Ông là người thông minh nhớ lâu, đọc sách ngàn dòng một mạch. </div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Cuộc đời</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Ông đỗ trạng nguyên năm Thiệu Long thứ 9 (1266) đời vua Trần Thánh Tông, là vị tổ khai khoa của xứ Nghệ, nhưng không ra làm quan. Ông ở lại làm môn khách giúp Chiêu Minh vương Trần Quang Khải trấn Nghệ An. Với tư cách là một quân sư, ông đã giúp Trần Quang Khải thảo ra kế hoạch về tuyển quân và dự trữ lương thực, củng cố biên giới phía Nam (gọi là Biến pháp tam chương) góp phần quan trọng trong việc đánh thắng quân Nguyên Mông. Ông được cử theo đoàn sứ bộ sang nhà Nguyên, bằng trí tuệ uyên bác và tài ngoại giao, ông đã góp phần thiết lập quan hệ ngoại giao hoà hiếu giữa 2 nước.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Khi tuổi đã cao, ông về quê mở trường dạy học và bốc thuốc chữa bệnh cho dân. Ông thọ 79 tuổi, được an táng tại quê nhà. Ông được vua phong cho làm Phúc thần, hiệu là Đương Cảnh thành hoàng đại vương. Sau đó, hậu duệ di cư vào trấn Nghệ An (núi Thành) xã Hưng Phú - huyện Hưng Nguyên, đã dời mộ ông vào đồng Phù Quang, xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Do có công với đất nước, ông đã được các triều Lê, Nguyễn sắc phong Thần mộ. Hiện Đền thờ trạng nguyên Bạch Liêu tại xã Hưng Phú - huyện Hưng Nguyên - tỉnh Nghệ An, đã được Bộ Văn hóa-Thông tin Việt Nam xếp hạng di tích lịch sử-văn hóa cấp quốc gia, theo quyết định số 2015/VH-QĐ ngày 16 tháng 12 năm 1993</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Con đường</span></b></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Nghệ An: nối đường Võ Thị Sáu với Lê Duẩn - TP. Vinh</div><div style="text-align: justify;"><br /></div>
<div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" referrerpolicy="no-referrer-when-downgrade" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d2296.8590310101267!2d105.69645812992367!3d18.660904840239695!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x3139cdd2d58f7a85%3A0xe16743520b0c0c36!2zQuG6oWNoIExpw6p1LCBC4bq_biBUaOG7p3ksIFRwLiBWaW5oLCBOZ2jhu4cgQW4sIFZp4buHdCBOYW0!5e0!3m2!1svi!2s!4v1679666805699!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe>
<br /></div><div style="text-align: center;"><br /></div><div style="text-align: center;">---</div><div style="text-align: center;"><br /></div>
<div style="text-align: justify;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiBfAP3PqGfRo8xpe6NqrikWdfuBhPZ8lt8PKPtwIDmX4-R_meSRsZzjbTUJCos9a9hMoyRrnd27vi7J3j00sv8KslnIy8IJDffmbdtD1rPzqh3fdTTPqSGlO-G8di76goe0nEMZ_q6Usc/s960/Slide11.PNG" style="clear: right; float: right; margin-bottom: 1em; margin-left: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="300" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiBfAP3PqGfRo8xpe6NqrikWdfuBhPZ8lt8PKPtwIDmX4-R_meSRsZzjbTUJCos9a9hMoyRrnd27vi7J3j00sv8KslnIy8IJDffmbdtD1rPzqh3fdTTPqSGlO-G8di76goe0nEMZ_q6Usc/w400-h300/Slide11.PNG" width="400" /></a></div>
<b><span style="color: #38761d; font-size: large;">Đào Tiêu</span></b> (?-?), có tài liệu viết là Đào Thúc hay Đào Dương Bật, là một Trạng nguyên Việt Nam dưới triều Trần.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Quê gốc của ông ở xã Phủ Lý, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, nhưng sinh ra và lớn lên ở Yên Hồ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Năm Ất Hợi, niên hiệu Bảo Phù thứ 3 (1275) đời vua Trần Thánh Tông, ông thi đỗ danh hiệu Trại Trạng nguyên (những trạng nguyên có quê quán từ Thanh Hóa trở vào). Sau khi ông mất, vua đã phong phúc thần cho ông</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Con đường</span></b></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Thanh Hoá: nối đường Chu Nguyên Lương với Trần Hưng Đạo - TP. Thanh Hoá</div><div style="text-align: justify;"><br /></div>
<div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" referrerpolicy="no-referrer-when-downgrade" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d3753.3920876842385!2d105.79478110047444!3d19.823356182028654!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x31365811ccf36bb9%3A0xb184b0aff977888f!2zxJDDoG8gVGnDqnUsIE5hbSBOZ-G6oW4sIFRoYW5oIEhvw6EsIFZp4buHdCBOYW0!5e0!3m2!1svi!2s!4v1679666863277!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe>
<br /></div><div style="text-align: center;"><br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: red;">Thiên Linh</span></b></div>
Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-9118728316928300490.post-91521181479993722812022-02-02T22:22:00.002+07:002023-03-24T20:50:59.529+07:00DNQTĐ: Bùi Quốc Hưng và Ngô Từ<div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #b45f06; font-size: large;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgkVZsy1elIRyemDEYlu5CIyIl4aLVS4XeduWE52CJmnd0R1PfY9QIXJ1UTBENkVITgjZjeMRgSHffNt_4-eLijkx2XhZ1BNhNanMua6J8tfB0aZEF6Rnm5ONMVKIJRb9qjH4SKy8UBQK8/s960/Slide56.PNG" style="clear: right; float: right; margin-bottom: 1em; margin-left: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgkVZsy1elIRyemDEYlu5CIyIl4aLVS4XeduWE52CJmnd0R1PfY9QIXJ1UTBENkVITgjZjeMRgSHffNt_4-eLijkx2XhZ1BNhNanMua6J8tfB0aZEF6Rnm5ONMVKIJRb9qjH4SKy8UBQK8/s320/Slide56.PNG" width="320" /></a></div>Bùi Quốc Hưng</span></b> hay Lê Quốc Hưng (? - ?), là công thần khai quốc nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam, quê ở làng Tri Lai, tổng Tri Lai, huyện Vũ Tiên, phủ Kiến Xương (nay là thôn Phú Lạc, xã Phú Xuân, thành phố Thái Bình. Ông là chắt nội của Bùi Mộc Đạc (tức Phí Mộc Lạc)</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Cuộc đời</span></b></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Bùi Quốc Hưng tham gia khởi nghĩa từ buổi ban đầu, ông đã có mặt trong danh sách 19 người tham dự hội thề Lũng Nhai năm 1416. Tháng 09/1426, Lý An, Phương Chính bỏ thành Nghệ An, vượt biển chạy về Tây Đô. Ông được lệnh của Lê Lợi cùng Lê Ngân, Lê Văn An, Lê Bôi, Lê Điền, Lê Lĩnh, Lê Văn Linh ở lại vây thành Nghệ An. Tháng 11/ 1426, Lê Lợi lập Trần Cảo làm vua, đặt niên hiệu Thiên Khánh, sai Bùi Quốc Hưng lúc ấy giữ chức Tả bộc xạ dạy cho, thực là để coi giữ. Cùng năm 1426, Vương Thông đắp thành cao hào sâu thủ thế, cầu viện binh. Lê Lợi chia quân đi đánh các thành. Bùi Quốc Hưng được lệnh đánh hai thành Điêu Diêu và Thị Cầu.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Ngày 7/1/1429, Nhập nội thiếu úy Bùi Quốc Hưng là một trong 7 vị đại thần được vua Lê Thái Tổ sai mang kim sách lập Quốc vương Lê Tư Tề và Hoàng Thái tử Nguyên Long. Ngày 03/05/1429 ban biển ngạch công thần cho 93 viên, Bùi Quốc Hưng được phong tước Hương thượng hầu, hàng thứ 3 và ban quốc tính. Đời vua Lê Thái Tông. Năm 1434, Bùi Quốc Hưng lúc ấy giữ chức Nhập nội Thiếu bảo. Tháng 11 năm 1434, Lê Quốc Hưng cùng với Nhập nội hữu bật Lê Văn Linh làm lễ tấu cáo ở Thái miếu, rước thần chủ mới của Thái Tổ và Quốc thái mẫu vào thờ ở Thái miếu.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Ngày 05/01/1435, Bùi Quốc Hưng được lệnh làm lễ tế tiên sư Khổng Tử, từ đó về sau thành lệ. Tháng 3, năm 1435, Bùi Quốc Hưng vì có công tâu gương của liệt nữ Lê Thị, được nhà vua biểu dương. Tháng 08/1437, Bùi Quốc Hưng đang giữ chức Thiếu bảo tri từ tụng vì tiến cử người không đúng lại bao che cho tội tham ô bị vua Lê Thái Tông biếm 1 tư. Sau đó không thấy sử chép về ông nữa.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Con đường</span></b></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;"><br /></span></b></div><div style="text-align: justify;">Tại Quảng Ninh: nối đường Trần Cảo với Lam Sơn - TP. Hạ Long</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Saigon: nối đường Bến Vân Đồn với Lê Văn Linh – quận 4 (Tên: Lê Quốc Hưng)</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Đà Nẵng: nối đường Vân Đồn với Yết Kiêu – quận Sơn Trà</div><div style="text-align: justify;"><br /></div>
<div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d2279.3012143732444!2d108.24335726936563!3d16.101130417335266!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x314217fbf6807513%3A0x6a092bd0a0cb8dc9!2zQsO5aSBRdeG7kWMgSMawbmcsIFRo4buNIFF1YW5nLCBTxqFuIFRyw6AsIMSQw6AgTuG6tW5nLCBWaeG7h3QgTmFt!5e0!3m2!1svi!2s!4v1643809019110!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #274e13; font-size: large;">Ngô Từ</span></b> (1370-1453) hiệu là Duyên Ý Dụ Vương, là một danh nhân đầu thời Lê sơ.</div><div style="text-align: justify;"><div><br /></div><div><b><span style="color: #0b5394;">Cuộc đời</span></b></div><div><br /></div><div>Cha ông là Ngô Kinh được Lê Khoáng và vợ Trịnh Thị Thương đem về nhà nuôi dưỡng. Sau đó, dạm hỏi bà Lê Thị Mười cho Ngô Kinh. Ngày 02/05/1370, Ngô Từ được sinh ra tại Động Bàng (nay là Định Hoà, Yên Định, Thanh Hoá). Lớn lên, Ngô Từ được Lê Khoáng giao việc nuôi dưỡng Lê Lợi.</div><div><br /></div><div>Năm 1418, Lê Lợi khởi binh ở Lam Sơn. Ngô Từ giữ gìn căn cứ Chí Linh, trông nom của cải, khi thì bổ sung quân số cho mặt trận, khi thì dùng kỳ binh đánh đuổi quân Minh khi chúng vào cướp phá Lam Kinh. Năm 1423, Lê Lợi trở lại Lam Sơn, ban thưởng công lao, phong Ngô Kinh là kiện tướng hầu, Ngô Từ là Bàng khê hầu.</div><div><br /></div><div>Năm 1428, sau khi đất nước hoà bình, Lê Thái Tổ phong thăng thụ Ngô Kinh làm Thái phó Hưng Quốc Công, Ngô Từ làm Thái bảo, Chương Khánh Công, được ban quốc tính. Năm 1433, Lê Lợi mất, Lê Thái Tông lên ngôi, con gái Ngô Từ là Ngô Thị Ngọc Dao tiến cung làm phi tần, sau đó sinh ra Lê Tư Thành, tức vua Lê Thánh Tông sau này.</div><div><br /></div><div>Ngày 08/03/1453, Ngô Từ mất, thọ 84 tuổi. Hiện nay, tại xã Định Hòa, Yên Định, Thanh Hóa có Phúc Quang Từ Đường thờ Ngô Từ, Ngô Thị Ngọc Giao và Lê Thánh Tông.</div><div><br /></div><div><span style="color: #0b5394;"><b>Con đường</b></span></div><div><br /></div><div>Tại Thanh Hoá: nối đường Nguyễn Huy Tự với Tống Duy Tân – TP. Thanh Hoá</div><div><br /></div><div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d2654.420538041421!2d105.78322947067954!3d19.801093912955828!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x313657fdc70fc1f3%3A0x3ea23675909b5ac8!2zTmfDtCBU4burLCBMYW0gU8ahbiwgVGhhbmggSG_DoSwgVmnhu4d0IE5hbQ!5e0!3m2!1svi!2s!4v1643809331485!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe><br /></div></div></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: red;"><br /></span></b></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: red;">Thiên Linh</span></b></div>Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-9118728316928300490.post-22218575806173367462021-10-22T15:00:00.009+07:002023-03-24T20:43:35.143+07:00DNQTĐ: Lê Lai<div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #b45f06; font-size: large;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhhbqVmvsuCDDWLBTYQIG9ZvNYDlnVVt2JoN5Tt_GlFyR-x4W2EKCS5qBBfZ1vP0xGnCyK-xEkYjNZqzYwD9JcC01Z7V3lDep28q3tO8o8NO3trOE2RfzHoJzSz0pVZ04BUlJXjhrFQhik/s960/Slide55.PNG" style="clear: right; float: right; margin-bottom: 1em; margin-left: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhhbqVmvsuCDDWLBTYQIG9ZvNYDlnVVt2JoN5Tt_GlFyR-x4W2EKCS5qBBfZ1vP0xGnCyK-xEkYjNZqzYwD9JcC01Z7V3lDep28q3tO8o8NO3trOE2RfzHoJzSz0pVZ04BUlJXjhrFQhik/s320/Slide55.PNG" width="320" /></a></div>Lê Lai</span></b> - 黎 來 (? – 29/04/1418) là một viên tướng nổi tiếng của khởi nghĩa Lam Sơn, có công lao giúp đỡ Lê Thái Tổ gây dựng sự nghiệp. Câu chuyện ông hy sinh thân mình cứu Lê Thái Tổ thoát khỏi vòng vây của quân Minh được đời sau truyền tụng, gọi là Lê Lai cứu chúa (黎來救主). Ông được đời sau so sánh như Kỷ Tín, đã giúp Hán Cao Tổ đánh tráo mà thoát thân. Hình ảnh Lê Lai luôn được ca tụng và ghi nhớ, một tượng đài đáng ca ngợi về tấm lòng trung quân báo quốc.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #2b00fe;">Cuộc đời</span></b></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Lê Lai sinh ra ở thôn Dựng Tú, (nay là thôn Thành Sơn (Làng Tép), xã Kiên Thọ, Ngọc Lặc, Thanh Hóa), là con của Lê Kiều (黎 乔), nối đời làm chức phụ đạo trong vùng. Ông có người anh lớn tên là Lê Lạn (黎 烂). Lê Lai tính cương trực, dung mạo khác thường, chí khí cao cả lẫm liệt, lo việc hậu cần cho Lê Lợi.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Năm 1416, ông cùng Thái Tổ và các tướng lĩnh khác tham gia Hội thề Lũng Nhai, thề sống chết có nhau, nguyện chung sức đánh đuổi quân Minh đang cướp phá. Ông được ban tước Quan nội hầu, tổng quản của phủ Đô tổng quản</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Cuối tháng 1 năm 1418, Thái Tổ Cao Hoàng bị thua trận ở Mường Một, chạy thoát về Trịnh Cao, quân Minh đuổi theo vây chặt các lối hiểm yếu. Lê Lai mặc áo vua, ra ứng chiến. Quân Minh ngỡ là Thái Tổ nên xúm lại đánh kịch liệt. Lê Lai cầm binh dùng kế cầm chân giặc khoảng 500 tấn công quân minh ác liệt nhưng lại thất bại, bị quân Minh bắt và đem hành hình. Hôm ấy là ngày 29 tháng 4 âm lịch</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Lê Lai chết rồi, Lê Lợi ngầm sai người tìm di hài đem về Lam Sơn mai táng. Năm Thuận Thiên thứ nhất (1428), phong Lê Lai là Công thần hạng nhất, tặng là Suy trung Đồng đức Hiệp mưu Bảo chính Lũng Nhai công thần, hàm Thiếu úy, thụy là Toàn Nghĩa. Tháng 12 năm 1429, vua Lê Thái Tổ, sai Nguyễn Trãi viết hai bản lời thế ước trước và lời thề nhớ công của Lê Lai, để trong hòm vàng. Lại gia phong làm Thái úy</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Năm Thái Hòa thứ nhất 1443, ban tặng tước Bình Chương quốc quân trọng sự, ban cho túi kim ngư, ấn vàng, tước Huyện Thượng Hầu. Năm 1470, niên hiệu Hồng Đức tặng tước Diên Phúc Hầu. Năm 1484 truy tặng tước Thái úy Phúc Quốc Công, sau gia phong Trung Túc Vương. Lê Thái Tổ mất ngày 22 tháng 8 âm lịch, năm 1433, trước khi mất có dặn lại đời sau phải làm giỗ Lê Lai trước một ngày, tức là ngày 21 tháng 8. Từ đó dân gian truyền lại câu: Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #2b00fe;">Con đường</span></b></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại TP. HCM: </div><div style="text-align: justify;">-<span style="white-space: pre;"> </span>Tại quận 1: nối đường Hàm Nghi với Nguyễn Trãi</div><div style="text-align: justify;">-<span style="white-space: pre;"> </span>Tại Hóc Môn: nối đường Lý Nam Đế với Ngô Quyền</div><div style="text-align: justify;">-<span style="white-space: pre;"> </span>Tại Tân Bình: từ đường Trường Chinh đi đến hết đường</div><div style="text-align: justify;">-<span style="white-space: pre;"> </span>Tại Gò Vấp: từ đường Nguyễn Thái Sơn đi đến hết đường</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Hà Nội: </div><div style="text-align: justify;">-<span style="white-space: pre;"> </span>Tại Hà Đông: nối đường Bồ Hoả với Lê Lợi </div><div style="text-align: justify;">-<span style="white-space: pre;"> </span>Tại Hoàn Kiếm: nối đường Đinh Tiên Hoàng với Trần Quang Khải</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Lạng Sơn: nối đường Tông Đản với Trần Đăng Ninh - TP. Lạng Sơn</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Huế: nối đường Ngô Quyền với Lê Lợi - TP. Huế</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Khánh Hoà: nối đường Yết Kiêu với Lê Thành Phương - TP. Nha Trang</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại An Giang: nối đường Lý Thường Kiệt với Nguyễn Thái Học – tph. Long Xuyên</div></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d11086.136809422384!2d106.68655954341556!3d10.769794470200447!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x31752f3dd0c8c2c3%3A0x19bfe1b0cf9133f8!2zTMOqIExhaSwgUGjhuqFtIE5nxakgTMOjbywgUXXhuq1uIDEsIFRow6BuaCBwaOG7kSBI4buTIENow60gTWluaCwgVmnhu4d0IE5hbQ!5e0!3m2!1svi!2s!4v1633711209288!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: red;"><br /></span></b></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: red;">Thiên Linh</span></b></div>Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-9118728316928300490.post-10613648198015516092021-10-20T14:00:00.005+07:002023-03-24T20:50:41.164+07:00DNQTĐ: Nguyễn Chích - Lê Khôi<div><div style="text-align: justify;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiasC7yzANaaY5Y9G8Wi2LQ2dJ0jDqRQazfm8VwMfaO3kyv8YUC60Pe6nb9xVAPinvBZUvXlxOpf7Mw3slxbIiSpyBd6uquvjBk0guVXTH0t6d7FPk1wbyxdjFldaS5ftogGnYprMzkahY/s960/Slide2.PNG" style="clear: right; float: right; margin-bottom: 1em; margin-left: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiasC7yzANaaY5Y9G8Wi2LQ2dJ0jDqRQazfm8VwMfaO3kyv8YUC60Pe6nb9xVAPinvBZUvXlxOpf7Mw3slxbIiSpyBd6uquvjBk0guVXTH0t6d7FPk1wbyxdjFldaS5ftogGnYprMzkahY/s320/Slide2.PNG" width="320" /></a></div><b><span style="color: #783f04; font-size: large;">Nguyễn Chích</span></b> - 阮隻 (1382–1448) hay Lê Chích (黎隻) là công thần khai quốc nhà Lê sơ, người tham gia khởi nghĩa Lam Sơn. Ông quê ở xã Đông Ninh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam.<br /></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Cuộc đời</span></b></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Theo Văn bia quốc triều tả mệnh công thần, Nguyễn Chính mồ côi cả cha lẫn mẹ từ nhỏ. Ông là người ít nói, ít cười, hiền lành, trung thực, có chí lớn. Năm Nguyễn Chích 25 tuổi, nước Đại Ngu của nhà Hồ mất do cuộc xâm lược của nhà Minh. Ông nuôi chí đánh đuổi người Minh để cứu nước.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Năm 1418, Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn (Thọ Xuân, Thanh Hoá). Nghe tin thanh thế của Nguyễn Chích, Lê Lợi sai người mang thư đến mời ông về cùng tham gia quân Lam Sơn. Nguyễn Chích đồng ý theo Lê Lợi, nhưng thời gian đầu ông vẫn ở căn cứ Hoàng Nghiêu. Từ Hoàng Nghiêu, ông mang quân ra đánh Lương Nhữ Hốt ở đồn Cổ Vô, được Lê Lợi phong chức Vinh lộc đại phu Lân hổ vệ tướng quân. Sau đó Lê Lợi lại phong ông làm Đô đốc đạo phủ quản tổng đô đốc quân dân, tước Quan nội hầu.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Cuối năm 1420, ông mang toàn bộ lực lượng gia nhập với Lê Lợi – lúc đó đóng mở Mường Nanh. Ông được Lê Lợi phong làm Thiết đột hữu vệ Đồng tổng đốc chủ quân sự. Từ năm 1421 đến 1423, ông tham gia nhiều trận đánh với quân Lam Sơn như trận Ba Lẫm (tháng 12/1421) và trận Sách Khôi (tháng 2/1422) đánh bại 10 vạn quân Minh của Trần Trí. Trong những trận đánh nêu trên, Nguyễn Chích đã thể hiện tài năng mật thám vượt trội của mình. Đội ngũ gián điệp dưới trướng của ông đã nhiều lần cung cấp những thông tin hữu ích góp phần vào những thắng lợi đó. Nhờ công lao đó, ông được Lê Lợi thăng lên chức thiếu uý.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Từ năm 1418 đến 1423, quân Lam Sơn chỉ hoạt động quanh quẩn ở vùng núi Thanh Hoá, bị quân Minh nhiều lần đánh bại. Trong tình thế khó khăn, Lê Lợi đã phải giảng hoà với quân Minh để củng cố thực lực. Cuối năm 1424, khi sứ giả quân Lam Sơn là Lê Trăn bị quân Minh bắt giữ, Lê Lợi bèn cắt đứt giảng hoà với địch. Vào thời điểm đó, Nguyễn Chích đã hiến kế với Lê Lợi: Đưa quân vào Nghệ An. </div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Chấp thuận kế hoạch của ông, Lê Lợi quyết định tiến vào Nghệ An. Đầu tiên quân Lam Sơn tập kích đồn Đa Căng (nay thuộc xã Vạn Hòa - Nông Cống, Thanh Hoá). Tháng 11/1424, quân Lam Sơn liên tiếp giành thắng lợi, hạ thành Trà Lân và tiến vào Nghệ An, sau đó đánh bại quân Minh ở Khả Lưu, Bồ Ải (tháng 5/1425). Thành Nghệ An bị bao vây cô lập, quân Lam Sơn tiến ra đánh Diễn châu và Tây Đô (tháng 6/1425). Nhân đà thắng lợi, tháng 8/1425, Lê Lợi sai Trần Nguyên Hãn mang quân vào đánh chiếm đất Tân Bình và Thuận Hoá. Hai thành này cũng bị vây. Tháng 9/1426, Lê Lợi kéo đại quân ra bắc, quân Lam Sơn liên tiếp thắng trận, đánh tan các đạo viện binh của Vương An Lão và Vương Thông, đẩy quân Minh vào thế phòng thủ ở Đông Quan và các thành ở Bắc Bộ. Trong thời gian đó, Nguyễn Chích được giao việc vây thành Nghệ An. Sau đó ông được Lê Lợi điều ra bắc, giữ chức tổng tri Hồng Châu và Tân Hưng.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Đầu năm 1427, ông cùng tướng Bùi Quốc Hưng mang quân bao vây, hạ thành Tiêu Diêu (Gia Lâm, Hà Nội) và Thị Cầu (Bắc Ninh), quân Minh trong hai thành này phải mở cửa ra hàng. Sau khi các tướng vây thành Đông Quan là Đinh Lễ, Lý Triện tử trận và Nguyễn Xí cùng Đỗ Bí bị bắt khi quân Minh đánh úp từ trong ra, Lê Lợi điều ông về vây mặt nam thành này. Cuối năm 1427, viện binh của Liễu Thăng và Mộc Thạnh lại sang cứu Vương Thông. Nguyễn Chích cùng Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả, Lê Khuyển lên trấn ải Lê Hoa để chặn Mộc Thạnh. Nghe tin đạo quân Liễu Thăng bị tiêu diệt, Mộc Thạnh rút quân về nước. Quân Lam Sơn đuổi theo truy kích một trận nữa.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi, lập ra nhà Hậu Lê. Năm 1429, Nguyễn Chích được phong tước Đình thượng hầu, ban cho họ Lê của vua. Từ đó ông được gọi là Lê Chích. Thời gian đầu, Lê Chích được tham gia triều chính nhưng sau đó ông bị Lê Lợi cách chức. Năm 1433, Lê Thái Tổ mất, con là Lê Thái Tông lên thay. Lê Chích được phục chức làm Đồng tổng quản châu Hoá, trấn thủ Thát Ải. Quân Chiêm Thành hai lần cướp phá, ông đều chặn đánh tan, giữ yên biên giới phía nam. Sau đó, Lê Chích còn lập công trong 2 lần đi đánh Chiêm Thành, được phong tước Đình hầu.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tháng chạp năm 1448, Nguyễn Chích mất, thọ 67 tuổi. Lê Nhân Tông truy tặng ông làm Nhập nội tư không bình chương sự, Hiến quốc công, thuỵ hiệu là Trinh Vũ. Thời Nguyễn, Gia Long liệt ông vào làm bậc công thần khai quốc nhà Lê thứ nhì (năm 1802).</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Con đường</span></b></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Đà Nẵng: nối đường Hà Hồi với Lý Thái Tông – quận Liên Chiểu</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Thanh Hoá: nối TL. 517 với Nguyễn Nhữ Soạn - TP. Thanh Hoá</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Nha Trang: nối đường 2/4 với Nguyễn Duy Hiệu </div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Saigon: nối đường Nguyễn Sơn với Thạch Lam – quận Tân Phú</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d3919.3919946564665!2d106.62378497767497!3d10.781259327788518!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x31752c1cc06e490d%3A0x90336c0bbf452442!2zTmd1eeG7hW4gQ2jDrWNoLCBQaMO6IFRo4bqhbmgsIFTDom4gUGjDuiwgVGjDoG5oIHBo4buRIEjhu5MgQ2jDrSBNaW5oLCBWaeG7h3QgTmFt!5e0!3m2!1svi!2s!4v1633695535441!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjbNiWW-3TzzWW6ODf_NRYLKokNNFpBD3Zztl9116_LDFgDP9Z3syDyClgqucCpJQ73EORF8B6RDVL8nC158LaaqufoXhYzV-Ly3lOXDfUInx4es8tVueQX5ERB1dA0rbg5bf0LrOqu_70/s960/Slide1.PNG" style="clear: right; float: right; margin-bottom: 1em; margin-left: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjbNiWW-3TzzWW6ODf_NRYLKokNNFpBD3Zztl9116_LDFgDP9Z3syDyClgqucCpJQ73EORF8B6RDVL8nC158LaaqufoXhYzV-Ly3lOXDfUInx4es8tVueQX5ERB1dA0rbg5bf0LrOqu_70/s320/Slide1.PNG" width="320" /></a></div><b><span style="color: #783f04; font-size: large;">Lê Khôi</span></b> - 黎魁; (? - 1446), tên thụy là Vũ Mục, công thần khai quốc nhà Lê sơ. Ông là con trai của Lê Trừ - anh thứ hai của Lê Lợi, tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, lập nhiều công lao. Lê Thái Tổ lên ngôi phong cho là Kì Lân Hổ Vệ tướng quân, hàm Nhập nội thiếu úy, tước Đình Thượng hầu. Lê Khôi được điều làm trấn thủ Hóa Châu, nhiều lần tham gia đánh Chiêm Thành, lập nhiều chiến tích.<br /></div><div style="text-align: justify;"><span style="color: #0b5394;"><b><br /></b></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="color: #0b5394;"><b>Cuộc đời</b></span></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Lê Khôi người làng Lam Sơn (nay thuộc xã Xuân Lam, Thọ Xuân, Thanh Hóa). Ông là con trai Lê Trừ - anh thứ hai của Lê Lợi, tức là cháu gọi Lê Lợi bằng chú ruột. Tính tình độ lượng rộng rãi, ít nói, ít cười, tham gia khởi nghĩa Lam Sơn từ đầu và lập được nhiều công lao.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tháng 12/1424, Lê Lợi cho quân tiến vào Nghệ An, trong trận Bồ Ải, Lê Khôi cùng với Lê Sát, Lê Lễ, Lê Vấn, Lê Nhân Chú, Lê Ngân, Lê Chiến, Lê Tông Kiều, Lê Bôi, Lê Văn An làm tiên phong, đánh thắng và chém quân Minh không sao kể xiết, bắt sống đô đốc Chu Kiệt, chém tướng tiên phong đô ty Hoành Thành. Tháng 9/1427, Minh Tuyên Tông sai Liễu Thăng, Lương Minh đem hơn 10 vạn quân cứu viện cho Vương Thông ở Bắc bộ. Tháng 10 năm ấy, Lê Lợi sai Lê Vấn, Lê Khôi, đem 3 nghìn quân Thiết đột, 4 thớt voi, cùng với các tướng Sát, Lý, Nhân Chú, Văn An tấn công quân Minh. Ngày 15, quân Minh đại bại, quân Lam Sơn chém hơn 5 vạn thủ cấp quân Minh, bắt sống các tướng Thôi Tụ, Hoàng Phúc và hơn 3 vạn lính Minh, thu được vũ khí, ngựa chiến, vàng bạc, vải lụa nhiều không kể xiết</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Năm 1427, ông cùng với nghĩa quân lập nên trận Khả Lưu. Trong trận Khả Lưu, ông cùng bọn Lê Sát xông lên trước, vây đánh và phá tan quân Minh, bắt sống được Đô đốc giặc là Hoàng Thành, lại còn bắt được sĩ tốt của chúng nhiều không kể hết. Năm 1427, ông hợp lực cùng Phạm Vấn chỉ huy một cánh quân, góp phần vào chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang quyết định chiến cục, kết thúc thắng lợi khởi nghĩa Lam Sơn. Ông cùng Phạm Vấn đem hơn hai ngàn quân đi trợ chiến cho Lê Sát, đánh tan và bắt sống bọn tướng giặc là Thôi Tụ và Hoàng Phúc cùng mấy vạn tên giặc, quét sạch quân Ngô và khôi phục Đông Đô</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, Lê Khôi được ban chức Kì Lân Hổ Vệ Tướng Quân, quyền Hành Tổng Quản, hàm Nhập Nội Thiếu úy, sau thăng hàm Tư Mã, được đem Kim Phù. Tháng 5/1429, vua Lê Thái Tổ ban biển ngạch công thần cho 93 viên, Lê Khôi được phong tước Đình thượng hầu.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Năm 1430, Lê Khôi được triều đình sai trấn thủ Hóa châu, ông bỏ điếm canh, triệt giới nghiêm, chiêu tập dân phiêu lưu, khuyến khích làm ruộng, huấn luyện binh sĩ, chính lệnh nghiêm minh, nhân dân yêu kính, quân Chiêm Thành sợ oai. Năm 1430, Nông Đắc Thái, Bế Khắc Thiệu làm phản ở Thái Nguyên, triều đình triệu Lê Khôi trở về đánh dẹp, tháng 2/1431, bắt được Nông Đắc Thái, Bế Khắc Thiệu. </div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Năm 1433, vua Lê Thái Tổ vời ông về để bàn định việc lập Thái tử, tháng 8 cùng năm, con trưởng Lê Tư Tề bị phế, em là Nguyên Long được lập Thái tử. Năm 1434, Lê Khôi lúc ấy giữ chức Nhập nội thiếu úy cùng với Hành khiển Tổng quản Lê Truất đốc suất các quân ở Tân Bình, Thuận Hóa cùng với nhập nội tư mã Lê Liệt tuần tra biên giới, đề phòng quân Chiêm Thành vào cướp phá. Năm 1437, Lê Khôi được phong làm Nhập nội tư mã, Tham trị chính sự, kiểm quản Tây Đạo. Tháng 12 cùng năm, ông làm Trấn phủ sứ lộ Nghệ An.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Năm 1439, Lê Khôi đi cùng vua Lê Thái Tông đánh Ai Lao, bắt tướng Ai Lao là Đạo Mông. Năm 1440, Lê Khôi đi đánh châu Thuận Mỗi cùng với vua Lê Thái Tông, năm 1441, tù trưởng Man tên Nghiễm đẫu hàng. Vua Lê Thái Tông đem quân trở về, ông được thăng làm Nhập nội đô đốc, sau, chưa rõ vì lý do gì, ông bị giáng chức. Năm 1443, ông được phục chức, làm Nhập Nội Thiếu úy, trấn thủ Nghệ An. Ông làm quan ở Nghệ An được vài năm, chính sự công bình, kiện cáo rõ ràng, mùa được, dân khỏe, tiếng ca tụng công đức vang khắp đường ngõ. Năm 1444, vua Chiêm là Bí Cai tiến đánh cướp thành Châu Hóa, năm 1445 lại tiến đánh đánh thành An Dương thuộc Châu Hóa, vua Lê Nhân Tông sai Tư đồ Lê Thận, đô đốc Lê Xí ứng cứu, Lê Khôi thống suất quân ở trấn tăng viện. Trận này Đại Việt chiến thắng, vua phong ông làm Nhập nội tham dự triều chính.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Năm 1446, Đô đốc Lê Khả đem đại binh đánh Chiêm, Lê Khôi làm tiền quân, phá tan đồn ải quân Chiêm, vượt Thi Giang, đến cửa biển Thi Nại, rồi vượt biển đến đất Chiêm. Tướng Chiêm biết tiếng ông, liền hỏi: Có phải là ông Tư mã đấy chăng. Lê Khôi liền bỏ mũ trụ ra cho quân Chiêm thấy, quân Chiêm sụp ngựa xuống lạy, biếu sản vật, đầu hàng. Lê Khôi đến đâu, quân Chiêm tan vỡ đến đấy, đánh đến thành Đồ Bàn, bắt được vua Chiêm là Bí Cai.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Lúc đem quân trở về, ông mắc bệnh, mất ngày 03/05/1446 ở chân núi Long Ngâm, cửa biển Nam Giới, thuộc địa phận Hà Tĩnh ngày nay. Triều đình bãi triều ba ngày, truy phong tước Nhập nội Đô đốc, thụy là Trung Hiển. Sau truy tặng Nhập nội kiểm hiệu Tư không, Bình chương sự, đổi tên thụy là Vũ Mục công.</div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;"><br /></span></b></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Con đường</span></b></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;"><br /></span></b></div><div style="text-align: justify;">Tại Đà Nẵng: nối đường Nguyễn Hữu Dật với Lương Nhữ Hộc – quận Hải Châu</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Thanh Hoá: nối ngõ Hợp Nhất với Đại lộ Lê Lợi - TP. Thanh Hoá</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Saigon: nối đường Nguyễn Sơn với Thạch Lam – quận Tân Phú</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d3295.818273687197!2d106.62644754842897!3d10.779835455320931!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x31752c1d71b9dca9%3A0x81e13b7c706e9051!2zTMOqIEtow7RpLCBQaMO6IFRo4bqhbmgsIFTDom4gUGjDuiwgVGjDoG5oIHBo4buRIEjhu5MgQ2jDrSBNaW5oLCBWaeG7h3QgTmFt!5e0!3m2!1svi!2s!4v1633695595653!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe></div></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: red;">Thiên Linh</span></b></div>Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-9118728316928300490.post-60759607949364635052021-10-18T13:30:00.004+07:002023-03-24T20:29:30.145+07:00DNQTĐ: Nguyễn Nhữ Lãm - Trịnh Lỗi<div><div style="text-align: justify;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjVTWHBacR0Gguvzvhy_HuhPrWPF0lIKIeOjKZfoNyCzqK4CXPeUfTb6fLF5qJmiZT8Lh7b15IDayNbiWJJa0uxmRy7u_dULgoKeh3agFbL3-76qMTdOFpZYx0RwX1UDL1Q2vYLheOkCuc/s960/Slide4.PNG" style="clear: right; float: right; margin-bottom: 1em; margin-left: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjVTWHBacR0Gguvzvhy_HuhPrWPF0lIKIeOjKZfoNyCzqK4CXPeUfTb6fLF5qJmiZT8Lh7b15IDayNbiWJJa0uxmRy7u_dULgoKeh3agFbL3-76qMTdOFpZYx0RwX1UDL1Q2vYLheOkCuc/s320/Slide4.PNG" width="320" /></a></div><b><span style="color: #783f04; font-size: large;">Nguyễn Nhữ Lãm</span></b> - 阮汝覧, hay Lê Nhữ Lãm (1378-1437) là công thần khai quốc nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam.<br /></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Cuộc đời</span></b></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Ngày 02/01 năm Mậu Tuất (1418) Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, Nguyễn Nhữ Lãm là một trong 50 tướng văn, tướng võ được phong chức đại tướng và thừa tướng chia nhau đốc xuất đội quân Thiết đột ra đối địch với quân Minh.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Ngày 03/05 năm Kỷ Dậu (1429), Lê Thái Tổ ban biển ngạch công thần cho 93 viên, Nguyễn Nhữ Lãm được phong tước Đình thượng hầu cùng 14 vị khác, ban quốc tính họ Lê. Tháng 1/1431, vua Lê Thái Tổ cử Nguyễn Nhữ Lãm làm chánh sứ cùng phó chánh sứ là Lại bộ thượng thư Hà Lật và Lê Bính sang triều Minh cầu phong, đồng thời trần tình và giải đáp về việc có dụ đòi trả chiến khí và tìm con cháu họ Trần. Lời biểu đại ý là: Đã huy động rất nhiều người trong nước, tìm kiếm con cháu họ Trần ở khắp nơi, đích thực không còn một ai. Trộm nghĩ đất nước chúng tôi không thể không có người trông coi, nhưng vẫn chưa được lệnh của triều đình, vì thế cứ phải tỏ bày mãi mãi. Vua Minh thuận theo.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Năm 1434, sai Hữu bộc xạ Lê Nhữ Lãm đến Lam Kinh dựng miếu thờ thái mẫu. Tháng 2/1435, Nguyễn Nhữ Lãm lúc ấy đang giữ chức hữu bộc xạ được kiêm thêm chức Hành khiển Tây đạo. Tháng 11/1435, sứ Chiêm sang, trước khi về, nhà vua ban cho vải lụa. Nguyễn Nhữ Lãm làm công văn đóng dấu của Thượng thư trao cho sứ Chiêm mang về kết tình giao hảo. Sau đó không thấy chính sử chép về ông nữa.</div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;"><br /></span></b></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Con đường</span></b></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Thanh Hoá: nối đường Phạm Đức Kỳ với Âu Cơ - TP. Thanh Hoá</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Saigon: nối đường Phú Thọ Hoà với Nguyễn Sơn – quận Tân Phú</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d3919.3591006345537!2d106.62445891395824!3d10.783784292316566!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x31752c02e0c65ffb%3A0x7f0e8e6eadfdb0e7!2zTmd1eeG7hW4gTmjhu68gTMOjbSwgUGjDuiBUaOG7jSBIb8OgLCBUw6JuIFBow7osIFRow6BuaCBwaOG7kSBI4buTIENow60gTWluaCwgVmnhu4d0IE5hbQ!5e0!3m2!1svi!2s!4v1633696873563!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe></div></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div><div style="text-align: justify;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgDXZArgfCN_IO1IkhD5eQ9st6ZZJPy0zafxs57GdRW0b6GbG1_WPVhRMjit-5ra83-xzH4ZyTQmBKOfa9gbfHA9isbvwki_AGV7b1RaterGxDRJMkK15qZE_sRxgXHyIxD8Ik0CqaKAUM/s960/Slide3.PNG" style="clear: right; float: right; margin-bottom: 1em; margin-left: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgDXZArgfCN_IO1IkhD5eQ9st6ZZJPy0zafxs57GdRW0b6GbG1_WPVhRMjit-5ra83-xzH4ZyTQmBKOfa9gbfHA9isbvwki_AGV7b1RaterGxDRJMkK15qZE_sRxgXHyIxD8Ik0CqaKAUM/s320/Slide3.PNG" width="320" /></a></div><b><span style="color: #783f04; font-size: large;">Trịnh Lỗi</span></b> hay Lê Lỗi (黎磊) (? - 7/12/1434) là một khai quốc công thần nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam, quê ở làng Cự Lại, xã Sơn Lạc, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình<br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;"><br /></span></b></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Cuộc đời</span></b></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Trịnh Lỗi theo Lê Lợi khởi binh từ ngày đầu. Ông tham gia nhiều trận đánh, trước sau chống giữ, trải qua nhiều gian lao nguy hiểm, mấy lần phong lên chức Thiếu úy. Tháng 1/1427, Lê Lợi cho quân bao vây thành Đông Quan, sai Trịnh Lỗi lúc ấy giữ chức Thiếu úy, cùng với Tư không Đinh Lễ, Thiếu úy Lê Sát, Nguyễn Lý, Nguyễn Chích đóng quân ở cửa Nam.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Năm 1428, Trịnh Lỗi được phong làm Nhập nội thị trung. Ngày 03/05/1429, vua Lê Thái Tổ ban biển ngạch công thần cho 93 viên, Trịnh Lỗi được ban tước Đình thượng hầu. Năm 1432, vua Lê Thái Tổ thăng ông làm Nhập nội đại hành khiển tả bộc xạ, tham dự triều chính.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Ngày 07/11/1434 thời Lê Thái Tông, Tây đạo Hành khiển tả bộc xạ Trịnh Lỗi qua đời, được truy tặng Bảo chính công thần phụ quốc thượng tướng quân nhập nội trung thư lệnh hương hầu, tên thụy là Trung Giản. Năm 1484, Lê Thánh Tông truy tặng ông là Tuyên Hy Hầu, lại gia tặng là Thái úy Đạo quốc công</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Con đường</span></b></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Đà Nẵng: nối Đa Phước 8 với Lê Hy Cát – quận Ngũ Hành Sơn</div></div><div><br /></div><div><span style="text-align: justify;">Tại Saigon: nối đường Đàm Thận Huy với Phạm Văn Xảo – quận Tân Phú</span></div><div><span style="text-align: justify;"><br /></span></div><div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d1647.8594814649434!2d106.62300400916003!3d10.788899429200663!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x31752c014c4ee3b1%3A0x22ab56f7478c85e0!2zVHLhu4tuaCBM4buXaSwgUGjDuiBUaOG7jSBIb8OgLCBUw6JuIFBow7osIFRow6BuaCBwaOG7kSBI4buTIENow60gTWluaCwgVmnhu4d0IE5hbQ!5e0!3m2!1svi!2s!4v1633696925822!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe></div><b><span style="color: red;"><div><b><span style="color: red;"><br /></span></b></div>
Thiên Linh</span></b>Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-9118728316928300490.post-4138270524734262552021-10-16T11:30:00.006+07:002021-10-16T11:30:00.179+07:00DNQTĐ: Đào Công Soạn và Phạm Cuống<div><div style="text-align: justify;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEghz0M6OojZkIi4gaxQn14fQ-5N3KSIcT3GnolMfHvHxRdEpMhm21-0_5ZnXqM0tauczMMi3bi35Ct13ZJbYrpFSkTqMTnJSHxC50wJfbBMJ70Wp0VW01TVJcxu0k76npwFemOnt2nhmRU/s960/Slide6.PNG" imageanchor="1" style="clear: right; float: right; margin-bottom: 1em; margin-left: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEghz0M6OojZkIi4gaxQn14fQ-5N3KSIcT3GnolMfHvHxRdEpMhm21-0_5ZnXqM0tauczMMi3bi35Ct13ZJbYrpFSkTqMTnJSHxC50wJfbBMJ70Wp0VW01TVJcxu0k76npwFemOnt2nhmRU/s320/Slide6.PNG" width="320" /></a></div><span style="color: #783f04; font-size: large;"><b>Đào Công Soạn</b></span> - 陶公僎, (1381-1458) là đại thần nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam.<br /><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Cuộc đời</span></b></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Đào Công Soạn tự là Tân Khanh, người làng Thiện Phiến, huyện Tiên Lữ, Hưng Yên, Việt Nam. Đào Công Soạn trưởng thành khi nước Đại Việt có nhiều biến động: nhà Hồ thay nhà Trần (1400), không lâu sau quân Minh sang diệt nhà Hồ (1407). Hồi mới mở nước, Đào Công Soạn đón yết quân khởi nghĩa.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Năm 1426, thủ lĩnh quân Lam Sơn chống Minh là Lê Lợi tiến quân ra Bắc, tổ chức kỳ thi đầu tiên. Khi đó Đào Công Soạn đã 46 tuổi, đi thi và đỗ đầu. Ông được Lê Lợi bổ dụng làm quan ngay. Ngày 20, tháng 12, năm 1426, đặt chức an phủ sứ các lộ. Đào Công Soạn, Nguyễn Dực và 24 người khác được gia phong làm chức đó. Chiến sự với quân Minh giằng co. Đào Công Soạn được lệnh đi sứ vào thành Đông Quan. Tướng Minh là Vương Thông đề nghị Lê Lợi lập lại con cháu nhà Trần làm điều kiện giảng hòa. Lê Lợi bèn lập Trần Cảo làm vua.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Ngày 29/10/1429, sứ nhà Minh là bọn Lý Kỳ về nước. Vua Lê Thái Tổ sai đầu mục là Đào Công Soạn, Lê Đức Huy, Phạm Khắc Phục mang vàng bạc và sản vật địa phương sang nhà Minh cầu phong, đồng thời giải đáp về việc đòi trả người và khí giới, cùng việc tìm con cháu họ Trần Khi trở về, Đào Công Soạn được phong làm tham tri Đông đạo.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Thời Lê Thái Tông, ông kiêm coi việc ở Viện Thẩm hình, làm tri Thẩm hình viện sự. Mùa đông năm 1435 ông được thăng chức Sứ thẩm hình, kiêm Thượng thư bộ Lễ. Khi sứ nhà Minh sang, ông là người am hiểu ngoại giao, được giao việc đón tiếp. Sang năm 1436, ông lại phụng mệnh làm chánh sứ sang nhà Minh cầu phong cho Lê Thái Tông. Mùa thu năm 1437, ông được gia phong chức Tả thị lang Môn hạ, tham gia việc xét địa bạ tịch ở Bắc đạo.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Năm 1444, ông lại làm chánh sứ sang cống nhà Minh. Khi trở về, ông được phong chức hầu, giảng ở tòa Kinh diên. Năm 1449, ông cáo lão xin nghỉ hưu nhưng vua Nhân Tông không cho mà thăng ông làm Nhập nội đại hành khiển, coi việc ba quán: Nho quán, Sùng văn quán và Tú lâm cực. Năm 1456, do ông là người có kinh nghiệm, am hiểu nhiều việc, được sai lên Thái Nguyên khám định bờ cõi. Là tiến sĩ thời chiến, Đào Công Soạn văn, võ thực tài, đủ chí dũng hoàn thành nhiệm vụ. Ông là một danh thần nổi tiếng về chính sự thời Lê, có tài văn học, tính ôn hòa, cần mẫn, được Lê Lợi và triều đình tín nhiệm. Ông đứng về phía Nguyễn Trãi chống Lương Đăng. Con ông là Đào Dung, cháu ông là Đào Nghiễm, Đào Phạm đều là bậc nhân tài.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Năm 1458 đời Lê Nhân Tông, Đào Công Soạn qua đời, thọ 78 tuổi.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Trong bộ Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn có chép 3 bài thơ của ông là: <b style="font-style: italic;">Lão Mai, Trừ tịch cảm hứng </b>và<b style="font-style: italic;"> Xuân nhật phong hữu bất ngộ.</b></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><span style="color: #0b5394;"><b>Con đường</b></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="color: #0b5394;"><b><br /></b></span></div><div style="text-align: justify;">Tại Đà Nẵng: nối đường Xuân Thiều 33 với Nguyễn Tất Thành – quận Liên Chiểu</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d2710.586761688151!2d108.13774741788161!3d16.09926002411838!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x31421f4c79f8a34f%3A0x83f022a2abb38f49!2zxJDDoG8gQ8O0bmcgU2_huqFuLCBIw7JhIEhp4buHcCBOYW0sIExpw6puIENoaeG7g3UsIMSQw6AgTuG6tW5nLCBWaeG7h3QgTmFt!5e0!3m2!1svi!2s!4v1633699914870!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhxwrZxp9YBV2rxoDFUHJQN8dLV_SV6U-yiBqfSQkx9vSMvvQzJdkNhka5awqfdfZVShkji5dUyX2n5ZY7FYxS3tUfXMfxhJGx9g6ttGTWpW3JTKi4CvRKmCF6vJ-1vp1hGvWjefWBU1Hk/s960/Slide5.PNG" imageanchor="1" style="clear: right; float: right; margin-bottom: 1em; margin-left: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhxwrZxp9YBV2rxoDFUHJQN8dLV_SV6U-yiBqfSQkx9vSMvvQzJdkNhka5awqfdfZVShkji5dUyX2n5ZY7FYxS3tUfXMfxhJGx9g6ttGTWpW3JTKi4CvRKmCF6vJ-1vp1hGvWjefWBU1Hk/s320/Slide5.PNG" width="320" /></a></div><b><span style="color: #274e13; font-size: large;">Phạm Cuống</span></b> (1367-1454) là một công thần khai quốc nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Cuộc đời</span></b></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;"><br /></span></b></div><div style="text-align: justify;">Theo thần phả địa phương, Phạm Cuống sinh năm 1367, quê ở huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên ngày nay. Phạm Cuống là con rể của Lưu Trung và là em rể (có giả thuyết nói là anh rể) của Lưu Nhân Chú.</div><div style="text-align: justify;">Trong khởi nghĩa Lam Sơn, Phạm Cuống theo Lưu Nhân Chú đầu nhập Lê Lợi, tham gia vào nhiều trận chiến. Năm 1426, Lê Lợi lấy danh nghĩa Trần Cảo phong Phạm Cuống chức Đồng Tổng quản Quy Hóa trấn tri quân dân sự.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Khởi nghĩa thành công, nhà Lê sơ thành lập, Phạm Cuống được xếp vào hàng Quan phục hầu. Ông là người đứng đầu danh sách 16 người được phong tước này. Thời Lê Thái Tông, khi Lưu Nhân Chú bị sát hại, Phạm Cuống né được sự kiện này, tiếp tục phục vụ các triều vua Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông. Phạm Cuống mất năm 1454 và đến thời Lê Thánh Tông được truy tặng nhiều chức tước.</div></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Con đường</span></b></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Thanh Hoá: nối đường Lê Dụ Tông với đại lộ CSEDP (đường vành đai TP. Thanh Hoá) - tph. Thanh Hoá</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d50507.28911839234!2d105.76578060188115!3d19.79858422239202!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x313657de303ce42b%3A0x7da433c9b814ad2a!2zUGjhuqFtIEN14buRbmcsIFRwLiBUaGFuaCBIb8OhLCBUaGFuaCBIb8OhLCBWaeG7h3QgTmFt!5e0!3m2!1svi!2s!4v1633699839609!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe></div><div style="text-align: center;"><br /></div><span style="color: red;"><b>
Thiên Linh</b></span>Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-9118728316928300490.post-45342638618104583812021-10-14T08:30:00.009+07:002023-03-24T20:25:22.472+07:00DNQTĐ: Lý Lăng và Lê Thạch<div><div style="text-align: justify;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj4haMAPK_GdndR77JpmfxHrIg7U0if7OjjBsjcHHmSoZbNVNLW7K6tubneV2uJlb0zBNKG-eZdfD1DI3bxlDIpYqMatd6JYeAm8HREEW7OJTacrIJn2uwkaSECvtJR06Wb1l98tBhSMoc/s960/Slide7.PNG" style="clear: right; float: right; margin-bottom: 1em; margin-left: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj4haMAPK_GdndR77JpmfxHrIg7U0if7OjjBsjcHHmSoZbNVNLW7K6tubneV2uJlb0zBNKG-eZdfD1DI3bxlDIpYqMatd6JYeAm8HREEW7OJTacrIJn2uwkaSECvtJR06Wb1l98tBhSMoc/s320/Slide7.PNG" width="320" /></a></div><b><span style="color: #783f04; font-size: large;">Lý Lăng</span></b> - 李凌 hay Lê Lăng - 黎凌 (? - 1462) là tướng nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam, người huyện Lôi Dương (nay là huyện Thọ Xuân, Thanh Hoá)</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Cuộc đời</span></b></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;"><br /></span></b></div><div style="text-align: justify;">Lê Lăng vốn có tên là Lý Lăng, vì cha ông là Lý Triện là công thần khai quốc nhà Hậu Lê, tham gia khởi nghĩa Lam Sơn nên được cải sang họ Lê của vua.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tháng 2/1427, Lý Triện cầm quân Lam Sơn vây phía nam thành Đông Quan, tướng Minh là Phương Chính kéo ra ngoài đánh úp động Quả ở Từ Liêm. Lý Triện bị tử trận. Thương Lý Triện nhiều lần phá được giặc mạnh, Lê Lợi cho cha là Lý Ba Lao làm chức sát sứ, cấp 400 mẫu ruộng, còn Lý Lăng được phong làm Phòng ngự sứ, tước Phục hầu. Thời Lê Nhân Tông còn nhỏ, Nguyễn thái hậu nhiếp chính, Lê Lăng giữ chức Nhập nội thái uý, tham gia triều chính. Khi Nhân Tông khôn lớn, tự ra coi việc triều đình, ông được phong là Nhập nội thiếu uý Bình chương quốc trọng sự, tước Á thượng hầu.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tháng 10/1459, anh vua Nhân Tông là Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân giết vua Nhân Tông lên ngôi, đặt niên hiệu Thiên Hưng. Tháng 5/1460, các đại thần Đỗ Bí, Lê Thụ, Lê Ngang mưu lật đổ vua Thiên Hưng bị bại lộ đều bị giết. Lê Lăng bàn mưu với Thái bảo Nguyễn Xí và Xa kỵ tổng tri Lê Niệm (cháu nội Lê Lai), Á hầu Lê Nhân Thuận, Quan phục hầu Trịnh Văn Sái, Điện tiền ty đô chỉ huy Nguyễn Đức Trung lật đổ Nghi Dân lần nữa. Ngày 6/6/1460, ông cùng Nguyễn Xí phát động binh biến, chém bầy tôi thân cận của Nghi Dân là Phạm Đồn, Phan Ban ở nghị sự đường, nắm lấy cấm binh, đóng chặt cửa thành, sai Lê Ninh Thuận bắt vây cánh của vua Thiên Hưng hơn 100 người. Sau đó các đại thần giáng Nghi Dân làm Lệ Đức hầu. Lê Lăng cầm giải lụa đến chỗ Lệ Đức hầu bắt phải tự thắt cổ chết. Các đại thần bàn việc lập vua mới. Lúc đó trong các con vua Lê Thái Tông còn lại 2 người là hoàng tử thứ hai - Cung vương Lê Khắc Xương và hoàng tử thứ tư - Gia vương Tư Thành. Lê Lăng bàn rằng nên lập Khắc Xương, trong khi Nguyễn Xí bàn nên lập Tư Thành. Tuy nhiên khi mọi người đến rước, Cung vương Khắc Xương một mực từ chối không nhận ngôi vua. Các đại thần quyết định lập Gia vương Tư Thành. Hoàng tử Tư Thành được lên ngôi, tức là vua Lê Thánh Tông. Lê Thánh Tông lên ngôi, xét công phò lập của các đại thần, Lê Lăng được phong làm Thái úy và được ban 300 mẫu ruộng thế nghiệp.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tháng 12/1460, ông cùng Đinh Liệt mang quân đi đánh tù trưởng họ Cầm ở Bồn Man quấy phá biên giới. Sau đó có người nói với Thánh Tông việc chủ ý trước đây của Lê Lăng muốn lập Cung vương Khắc Xương. Vì vậy Thánh Tông có ý ghét ông và có ý muốn hại ông. Thái uý Lê Lăng nắm quyền phụ chính trong triều, tính tình cứng cỏi càng khiến Thánh Tông e ngại, nói với các cận thần: Ta thấy Thái uý trong lòng thường sợ sệt. Thánh Tông muốn nhân đó để lập thành tội trạng, kết án ông nhưng trong triều đình nhiều người không phục và không tán thành.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tháng 8/1462, Thánh Tông bèn tự tay viết tờ chiếu, ra lệnh cho thái bảo Nguyễn Lỗi và một số người cùng cánh làm ra tờ tội trạng, tố cáo Lê Lăng với Đỗ Công Thích ngầm mưu làm phản, lại tố cáo cả một đại thần tham gia binh biến lật đổ Nghi Dân khác là Lê Nhân Thuận lập bè đảng che mắt vua. Thánh Tông căn cứ vào tờ tố cáo đó kết án xử tử Lê Lăng và những người bị tố cáo khác. Lê Lăng bị xử tử, gia sản bị tịch thu. Mọi người trong triều đều cho là ông bị oan nhưng không ai dám nói ra. </div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Sau nhiều năm, Lê Lăng không được minh oan hay đại xá như các đại thần bị hại đời trước như Phạm Văn Xảo, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Trãi, Lê Sát, Lê Ngân, Trịnh Khả. <i>Cuộc đời ông chỉ là do chọn sai người kế nghiệp nên mới có cái kết bi thảm - chuyện này vốn dĩ là bình thường của mỗi triều đại, không có tội gì lớn cũng không bán nước, hại dân nên vẫn được ghi công, lưu truyền hậu thế</i>.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Con đường</span></b></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Saigon: nối đường Lê Lư với Phạm Vấn – quận Tân Phú</div><div style="text-align: justify;"><br /></div></div><div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d2330.450549810343!2d106.62139687649854!3d10.785631865130764!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x31752c04853aad33%3A0xb6404cc68c1bc80f!2zTMOqIEzEg25nLCBQaMO6IFRo4buNIEhvw6AsIFTDom4gUGjDuiwgVGjDoG5oIHBo4buRIEjhu5MgQ2jDrSBNaW5oLCBWaeG7h3QgTmFt!5e0!3m2!1svi!2s!4v1633701261331!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe></div><span><div style="color: red; font-weight: bold;"><br /></div><div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #274e13; font-size: large;">Lê Thạch</span></b><span style="color: black;"> - 黎石 (? - 1421), là công thần khai quốc nhà Hậu Lê. Ông là con của anh trai cả của Lê Lợi, tham gia khởi nghĩa Lam Sơn từ buổi ban đầu, được Lê Lợi phong làm Tướng quốc. Lê Thạch vì ham lập công giết địch, mà tử trận trong trận chiến với quân Ai Lao vào năm 1421.</span></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;"><br /></span></b></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Cuộc đời</span></b></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;"><br /></span></b></div><div style="text-align: justify;"><span style="color: black;">Lê Thạch là người Lam Sơn, (nay là Thọ Xuân, Thanh Hóa), con trai của Lê Học - anh cả của Lê Lợi, tức là cháu gọi Lê Lợi bằng chú, cháu đích tôn của Lê Khoáng. Khi Lê Lợi còn nhỏ được Lê Học nuôi dạy nên sau này lúc Lê Học mất, Lê Lợi nuôi Lê Thạch, thương yêu như con. Lê Thạch là người nhân ái, ham đọc sách, dũng lược hơn người, khéo nuôi sĩ tốt. </span><span style="color: black;">Lê Thạch theo Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn từ buổi đầu, Lê Lợi phong làm Tướng quốc Lê Thạch theo nhà vua khởi binh ở Lam Sơn, thường được Lê Lợi sai làm tiên phong, đánh đâu thắng đấy.</span></div><div style="text-align: justify;"><span style="color: black;"><br /></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="color: black;">Năm 1418, tướng Minh là Mã Kỳ mang quân vây đánh Lam Sơn, Lê Lợi rút về Lạc Thuỷ đặt phục binh để đợi. Khi quân Mã Kỳ tiến đến, Lê Thạch và Lê Ngân, Đinh Bồ, Nguyễn Lý xông lên trước đón đánh, chém được hơn 3000 quân địch, thu được nhiều chiến lợi phẩm. Sau đó, ông theo Lê Lợi về Mường Thú đánh trại Nga Lạc, rồi lại tiến đến trại A Đả, đánh nhau với quân Minh ở Mỹ Canh, bắt được tướng giặc là Nguyễn Sao và chém hơn 300 quân địch, đều công đứng đầu ba quân.</span></div><div style="text-align: justify;"><span style="color: black;"><br /></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="color: black;">Năm 1421, tướng Minh là Trần Trí kéo quân đến đánh Ba Lẫm ải Kình Lộng. Trần Trí mở đường núi tiến lên, Lê Lợi đặt phục binh, sai Lê Thạch đi đầu đánh tan quân Minh ở Úng Ải. Lê Thạch thương làm tiên phong, công lao nhiều nhất. Do lập được công, Lê Thạch được phong làm Thứ thủ quân thiết đột, tước Lương Nghĩa hầu. Sau đó, Ai Lao đem 3 vạn quân giả vờ đến giúp, rồi bất ngờ đánh úp trại nghĩa quân. Lê Lợi đích thân đốc chiến, chém 1 vạn người, đuổi đến 4 ngày đến tận sào huyệt. Tù trưởng Ai Lao là Man Sát xin hòa, Lê Lợi biết Ai Lao trá hàng, nên không chấp nhận hòa hoãn. Các tướng Lam Sơn cho rằng quân sĩ đánh trận mấy ngày, đã mỏi mệt, nên cho nghỉ. Lê Thạch vì ham lập công giết địch, không nghe theo các tướng, tự mình dẫn quân xông lên trước, bất ngờ bị trúng tên bắn ngầm của địch và tử trận. </span><span style="color: black;">Được tin ông tử trận, Lê Lợi rất thương xót. </span></div><div style="text-align: justify;"><span style="color: black;"><br /></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="color: black;">Năm 1428, sau khi khởi nghĩa thắng lợi, ghi chép các công thần, ông được truy tặng làm Nhập nội kiểm hiệu thái uý Bình chương quân quốc trọng sự, lại phong là Trung Vũ đại vương và thờ phối ở tẩm miếu. Năm 1440, Lê Thái Tông truy tặng ông làm Lương quận công Trung Vũ vương. Năm 1454, Lê Nhân Tông gia tặng ông làm Quận công Trung Dũng Anh Nghị Chân Hiến đại vương. Tới năm 1487, Lê Thánh Tông truy tặng ông làm Lương quốc công, thuỵ là Chân Hiến Túc vương</span></div><div style="text-align: justify;"><span style="color: black;"><br /></span></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Con đường</span></b></div><div style="text-align: justify;"><span style="color: black;"><br /></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="color: black;">Tại Đà Nẵng: nối đường Nam Trân với Phan Khoang – Q. Cẩm Lệ</span></div><div style="text-align: justify;"><span style="color: black;"><br /></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="color: black;">Tại Hà Nội: nối đường Đinh Tiên Hoàng với Ngô Quyền – Q. Hoàn Kiếm</span></div><div style="text-align: justify;"><span style="color: black;"><br /></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="color: black;">Tại TP. HCM: nối đường Hoàng Diệu với Lê Văn Linh – quận 4</span></div></div><div style="color: red; font-weight: bold;"><br /></div><div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" referrerpolicy="no-referrer-when-downgrade" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d1068.5931963527496!2d106.7056695966773!3d10.763987275672536!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x31752f697c311f75%3A0x2d30aee39bfa9bbf!2zTMOqIFRo4bqhY2gsIFBoxrDhu51uZyAxMiAoUXXhuq1uNCksIFF14bqtbiA0LCBUaMOgbmggcGjhu5EgSOG7kyBDaMOtIE1pbmgsIFZp4buHdCBOYW0!5e0!3m2!1svi!2s!4v1679664257360!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe><span style="color: red;"><b> </b></span></div></span><div><span><span style="color: red;"><b><br /></b></span></span></div><div><span><span style="color: red;"><b>Thiên Linh</b></span></span></div>Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-9118728316928300490.post-51084668254871222282021-10-12T07:00:00.002+07:002021-10-12T23:20:51.844+07:00DNQTĐ: Lương Đắc Bằng và Lương Hữu Khánh<div><div style="text-align: justify;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjau5VNb8bNMsOa3NM27EhEaOvuEh2hdZ2HFnxa_BwxoM4VrBN06q-ZypZL_NSqrqqqC_RX3yFz2lB6RJamfcwYMeBtz8Twf5OwH-XnY7KaQA7kHakg3bdwblDSIA1Lzun4IqpcuAoHuAQ/s960/Slide10.PNG" imageanchor="1" style="clear: right; float: right; margin-bottom: 1em; margin-left: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjau5VNb8bNMsOa3NM27EhEaOvuEh2hdZ2HFnxa_BwxoM4VrBN06q-ZypZL_NSqrqqqC_RX3yFz2lB6RJamfcwYMeBtz8Twf5OwH-XnY7KaQA7kHakg3bdwblDSIA1Lzun4IqpcuAoHuAQ/s320/Slide10.PNG" width="320" /></a></div><b><span style="color: #783f04; font-size: large;">Lương Đắc Bằng </span></b>- 梁 得 朋 (1472 - 1522), là một nhà chính trị thời nhà Lê sơ, ông nổi bật với việc theo đại thần Nguyễn Văn Lang nổi quân ba phủ ở Thanh Hóa, đánh đổ triều vua Lê Uy Mục, lập nên vua Lê Tương Dực. Bằng khả năng văn chương của mình, ông thường được lệnh viết các bài hịch, chiếu, sắc của triều đình.</div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;"><br /></span></b></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Cuộc đời</span></b></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;"><br /></span></b></div><div style="text-align: justify;">Lương Đắc Bằng là người làng Hội Trào (hoặc Hội Triều) (nay là xã Hoằng Phong, Hoằng Hoá, Thanh Hóa), lúc bé đã có tiếng thần đồng. Ông đỗ Bảng nhãn hay Hội nguyên ở kì thi Hội năm Kỷ Mùi 1499; rồi thi Đình đỗ Nhất giáp tiến sĩ, tên đứng thứ 2, khi ứng chế được xếp thứ nhất. Ra làm quan, được thăng đến chức Tả Thị Lang bộ Lễ, Thị độc viện hàn lâm coi việc ở viện.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Năm 1504, vua Hiến Tông chết, người con thứ lên làm vua, tức vua Lê Túc Tông, Lê Túc Tông chết sớm, người anh lên thay tức vua Lê Uy Mục. Theo Đại Việt sử ký toàn thư: Vua nghiện rượu, hiếu sát, hoang dâm, thích ra oai, tàn hại người tông thất, giết ngầm tổ mẫu, họ ngoại hoành hành, trăm họ oán giận, người bấy giờ gọi là Quỷ vương, điềm loạn đã xuất hiện từ đấy. Năm 1509, vua Uy Mục đuổi những người tôn thất, công thần về Thanh Hóa, đại thần Nguyễn Văn Lang có trong số đó, ông đem quân ba phủ nổi quân ở Thanh Hóa, đón Giản tu công Lê Dinh làm minh chủ. Lê Đắc Bằng tham gia trong đó, Nguyễn Văn Lang bèn sai Lê Đắc Bằng soạn hịch kể tội vua Uy Mục. Nguyễn Văn Lang phát binh ra Thăng Long, vua Uy Mục thua trận, phải uống thuốc độc tự tự, năm ấy Lê Dinh lên ngôi, tức vua Lê Tương Dực. Sau khi lên ngôi vua dời thi hài mẹ mình về táng ở hương Mỹ Xá, huyện Ngự Thiên, dựng bia Huy Từ Trang Huệ Kiến Hoàng thái hậu. Sai Lương Đắc Bằng lúc ấy làm Lễ bộ tả thị lang Hàn lâm viện thị độc chưởng Hàn lâm viện sự soạn bi ký.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Năm 1510, vua Tương Dực phong thưởng cho các công thần, Lương Đắc Bằng được thăng làm Lại bộ Tả thị lang. Năm ấy vua khởi phục Lại bộ tả thị lang Lương Đắc Bằng kiêm Đông các học sĩ, nhập thị kinh diên nhưng Đắc Bằng cố từ chối không nhận. Nhân đó, Đức Bằng dâng lên 14 kế sách trị bình:</div><div style="text-align: justify;"><i>Hết sức cảnh giới để dẹp điềm tai dị</i></div><div style="text-align: justify;"><i>Hết lòng hiếu thảo để tỏ lòng trung.</i></div><div style="text-align: justify;"><i>Xa thanh sắc để làm gốc cho sự chính tâm.</i></div><div style="text-align: justify;"><i>Bỏ kẻ tà nịnh để trọng nguồn phong hóa.</i></div><div style="text-align: justify;"><i>Dè dặt việc cho quan tước để cẩn thận về việc khuyến trừng.</i></div><div style="text-align: justify;"><i>Tuyển bổ công bằng để đường làm quan được trong sạch.</i></div><div style="text-align: justify;"><i>Tiêu dùng phải dè dặt để giữ thói kiệm ước.</i></div><div style="text-align: justify;"><i>Khen người cho những người có tiết nghĩa để trọng đạo cương thường.</i></div><div style="text-align: justify;"><i>Cấm hối lộ để bỏ thói gian tham.</i></div><div style="text-align: justify;"><i>Sửa sang võ bị để thế nước được vững.</i></div><div style="text-align: justify;"><i>Kén chọn gián quan để cho người dám nói phấn khởi.</i></div><div style="text-align: justify;"><i>Bớt việc phục dịch để thỏa tình dân trông ngóng.</i></div><div style="text-align: justify;"><i>Hiệu lệnh phải nhất định để thống nhất lòng bốn phương</i></div><div style="text-align: justify;"><i>Cẩn thận pháp độ để mở đường thịnh trị</i></div><div style="text-align: justify;">Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép là vua nghe theo; sách Lịch triều hiến chương loại chí viết vua khen ngợi và nhận lời. </div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Ông làm quan đến Thượng thư bộ Lại, được Tham dự triều chính, tước Đôn trung bá. Hơn 50 tuổi thì chết, con ông là Lương Hữu Khánh, theo học Nguyễn Bỉnh Khiêm, trước đi thi theo nhà Mạc nhưng sau theo Trịnh Kiểm, làm đến Thượng thư, tước Đạt quận công</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Con đường </span></b></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Đà Nẵng: nối đường Quán Khải 9 với Lê Thành Phương – quận Ngũ Hành Sơn</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Khánh Hoà: nối đường Nguyễn Đức Thuận với Nguyễn Phong Sắc - TP. Nha Trang</div></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại TP. HCM: nối đường kênh Tân Hoá với Luỹ Bán Bích - Q. Tân Phú</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d1385.811909921127!2d106.63377225200436!3d10.760050249223418!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x31752e9caccf3f6f%3A0x7a4c0df181f5cd3f!2zTMawxqFuZyDEkOG6r2MgQuG6sW5nLCBUw6JuIFRo4bubaSBIb8OgLCBUw6JuIFBow7osIFRow6BuaCBwaOG7kSBI4buTIENow60gTWluaCwgVmnhu4d0IE5hbQ!5e0!3m2!1svi!2s!4v1633705064259!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe></div><div style="text-align: center;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiQS4NpItPjZb2Mp9zrsfizhv11fdIB9OWiAj0wePGDMle5Bn8Rj5URWJaopCjmCq-TLyFHzleEdh9azxh2IHOspe-GpJxenYTpTX9DjQYadJJOkok0ibSizYyZz8anMnfBEzD-ivRp3b0/s960/Slide9.PNG" imageanchor="1" style="clear: right; float: right; margin-bottom: 1em; margin-left: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiQS4NpItPjZb2Mp9zrsfizhv11fdIB9OWiAj0wePGDMle5Bn8Rj5URWJaopCjmCq-TLyFHzleEdh9azxh2IHOspe-GpJxenYTpTX9DjQYadJJOkok0ibSizYyZz8anMnfBEzD-ivRp3b0/s320/Slide9.PNG" width="320" /></a></div><b><span style="color: #274e13; font-size: large;">Lương Hữu Khánh</span></b> (1520 - ?) sống vào khoảng thế kỷ 16, là Thượng thư Bộ Binh (có sách chép khác là Thượng thư Bộ Lễ), thời Lê Trung hưng, tước Đạt Quận Công, là nhà thơ, con của Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, người làng Hội Triều, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.</div><div><br /></div><div><b><span style="color: #0b5394;">Cuộc đời</span></b></div><div><br /></div><div>Lương Hữu Khánh có cha là quan lớn, nhưng thanh liêm nên nhà nghèo, lúc nhỏ ông phải đi cày mướn gặt thuê cho ruộng nhà khác hoặc làm văn bản mướn để có thể sinh sống. Sau này ông theo học Nguyễn Bỉnh Khiêm là học trò cũ của cha mình, và được thầy học biệt đãi như con đẻ cho ở trong nhà. </div><div><br /></div><div>Ông đậu cử nhân năm 12 tuổi, đậu thứ 2 thi hội vì bị thiên vị nên ông bỏ, không thi đình dưới triều Mạc Ðăng Doanh mà trốn vào Thanh Hóa theo phò vua Lê. Có thuyết khác chép rằng ông đã yêu con gái lớn của Trạng Trình. Do cha của ông qua đời đã lâu, mẹ là vợ thiếp làm nghề buôn bán, sinh ông ở Thăng Long, chưa có ý kiến gì về việc hỏi vợ cho Lương Hữu Khánh ở nơi khác nên vợ chồng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tùy duyên mà gả con gái cho Phó Vệ úy Hầu tước Phạm Dao. Tiến sĩ Lương Hữu Khánh đã buồn rầu bỏ thi Đình của nhà Mạc để về quê cũ (Thanh Hóa) khởi nghiệp trung hưng nhà Lê.</div><div><br /></div><div>Lương Hữu Khánh là nhân vật trọng yếu của triều đình nhà Lê, có công khôi phục và lập nên nhà Lê trung hưng. Ông đã cùng với chúa Trịnh Tùng, vị tiết chế đức độ, có tầm nhìn xa rộng, và Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, nhà quân sư tài danh và ngoại giao lỗi lạc, đã nối được chí hướng của thầy học Nguyễn Bỉnh Khiêm, lấy yêu dân và vận nước làm trọng, để nỗ lực tôn phù vua sáng, thay đổi được cục diện chiến tranh Lê-Mạc kéo dài.</div><div><br /></div><div>Ông sáng tác nay chỉ còn lưu lại một số bài thơ, phú; đáng chú ý là bài thơ "<b><i>Quan sử</i></b>", dài 400 câu, về lịch sử của dân tộc từ Kinh Dương Vương đến Lê trung hưng.</div><div><br /></div><div><b><span style="color: #0b5394;">Con đường</span></b></div><div><b><span style="color: #0b5394;"><br /></span></b></div><div>Tại Thanh Hoá: nối đường Âu Cơ với Võ Nguyên Giáp – TP. Thanh Hoá</div><div><br /></div><div>Tại Đà Nẵng: nối đường Yết Kiêu với Lê Văn Lương (gần đường Hoàng Sa) – Q. Sơn Trà</div><div><br /></div><div>Tại TP. HCM: đường Lê Lai với Nguyễn Thị Minh Khai – quận 1</div><div><br /></div></div><div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d2398.8767080194357!2d106.68739420540523!3d10.768219457696066!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x31752f22b0d706db%3A0x58da0d3e1525cf8!2zTMawxqFuZyBI4buvdSBLaMOhbmgsIFBo4bqhbSBOZ8WpIEzDo28sIFF14bqtbiAxLCBUaMOgbmggcGjhu5EgSOG7kyBDaMOtIE1pbmgsIFZp4buHdCBOYW0!5e0!3m2!1svi!2s!4v1633705015297!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe><b><span style="color: red;"> </span></b></div><div style="text-align: center;"><b><span style="color: red;"><br /></span></b></div><div style="text-align: left;"><b><span style="color: red;">Thiên Linh</span></b></div>Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-9118728316928300490.post-41976076944315232282021-10-10T08:00:00.003+07:002021-10-16T20:23:18.164+07:00DNQTĐ: Nguyễn Trãi<div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #783f04; font-size: large;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhTP3py2vZcgA6nTUwlBv4dJy5Sppapd7z4bbUKx4Zc4SKNi5SYj2GOOZYmlPjLzDlh3oXHq1AH7eUPddt5Z8xXv1RGi-YYQdMujHqYKBGwq8eHiOMIogWrfXG2RinzU6taUqp6jLWYk50/s960/Slide11.PNG" style="clear: right; float: right; margin-bottom: 1em; margin-left: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhTP3py2vZcgA6nTUwlBv4dJy5Sppapd7z4bbUKx4Zc4SKNi5SYj2GOOZYmlPjLzDlh3oXHq1AH7eUPddt5Z8xXv1RGi-YYQdMujHqYKBGwq8eHiOMIogWrfXG2RinzU6taUqp6jLWYk50/s320/Slide11.PNG" width="320" /></a></div>Nguyễn Trãi</span></b> - 阮廌, (1380 – 19/09/1442), hiệu là Ức Trai (抑齋), là người đã tham gia tích cực Khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại sự xâm lược của nhà Minh (Trung Quốc) với Đại Việt. Khi cuộc khởi nghĩa thành công vào năm 1428, Nguyễn Trãi trở thành khai quốc công thần của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê trong Lịch sử Việt Nam.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Ông là anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới, nhà văn hoá tư tưởng – chính trị - quân sự kiệt xuất, nhà văn – nhà thơ – nhà địa lý lớn nhất của nhà Lê sơ, cũng là người có ảnh hưởng lớn nhất đến kho tàng thơ Nôm Việt Nam.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Cuộc đời</span></b></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, người làng Nhị Khê (nay là xã Nhị Khê, Thường Tín, thủ đô Hà Nội), là con của Nguyễn Phi Khanh - tiến sĩ cuối đời Trần và bà Trần Thị Thái – con gái Tư đồ Trần Nguyên Đán. Năm 1400, Hồ Quý Ly phế truất vua Trần Thiếu Đế, lật đổ nhà Trần, thành lập nhà Hồ. Ông ngoại của Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Đán, không chống lại Hồ Quý Ly mà gửi gắm con cháu mình cho Hồ Quý Ly. Trần Nguyên Đán đem con là Mộng Dữ ký thác cho Quý Ly. Hồ Quý Ly đem công chúa gả cho. Về sau, con cháu Trần Nguyên Đán đều được Hồ Quý Ly chăm sóc chu đáo.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Năm 1400, nhà Hồ mở khoa thi Nho học, Nguyễn Trãi tham dự và đỗ Thái học sinh, sau đó, ông được làm Ngự sử đài Chính chưởng. Nguyễn Phi Khanh năm 1401 được Hồ Hán Thương lấy làm Hàn Lâm viện học sĩ. Năm 1407, Minh Thành Tổ phái Trương Phụ đem quân xâm lược nước Đại Ngu, nhà Hồ kháng chiến thất bại, Hồ Quý Ly cùng nhiều triều thần bị bắt và bị đem về Trung Quốc. Cha ông là Nguyễn Phi Khanh cùng một số quan lại nhà Hồ đã đầu hàng trước đó. Sách Đại Việt sử ký toàn thư không chép gì về Nguyễn Trãi ở thời gian này. </div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí, sau cuộc Chiến tranh Minh – Đại Ngu, Đại Ngu rơi vào ách Minh thuộc. Lúc này, Nguyễn Trãi đang chạy trốn để thoát khỏi sự truy bắt của quân Minh. Tổng binh Trương Phụ ép Nguyễn Phi Khanh viết thư gọi ông, ông bất đắc dĩ phải ra hàng. Trương Phụ biết ông không chịu ra làm quan hợp tác với quân Minh, muốn giết đi, nhưng Thượng thư Hoàng Phúc thấy mặt mũi khác thường, tha cho và giam lỏng ở thành Đông Quan. Theo Trần Huy Liệu, khi Nguyễn Phi Khanh bị giải sang Trung Quốc, Nguyễn Trãi đã theo cha lên cửa ải và tỏ ý muốn đi theo hầu hạ, nhưng Nguyễn Phi Khanh không đồng ý và khuyên ông nên về lo cứu nước báo thù nhà. Cuộc đời Nguyễn Trãi từ sau năm 1407 đến khi vào yết kiến Lê Lợi ở Lỗi Giang để tham gia khởi nghĩa Lam Sơn vẫn còn là một ẩn số. Cho tới nay, chưa thấy được những tài liệu chính xác, đầy đủ về Nguyễn Trãi trong thời kỳ đó. Sử sách không chép cũng như chép không thống nhất và bản thân Nguyễn Trãi cũng không ghi lại điều gì cụ thể. Và cũng không ai biết, thực ra Nguyễn Trãi gặp Lê Lợi khi nào và ở đâu</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Đầu năm 1427, Lê Lợi phong cho Nguyễn Trãi làm Triều liệt Đại phu Nhập nội Hành khiển Lại bộ Thượng thư, kiêm chức Hành Khu mật viện sự, đây là lần xuất hiện đầu tiên của sách Đại Việt sử ký toàn thư về Nguyễn Trãi khi ông tham gia Khởi nghĩa Lam Sơn. Lê Lợi sai dựng một toà lầu nhiều tầng ở dinh Bồ Đề, trên bờ sông Hồng, cao ngang tháp Báo Thiên, hàng ngày ngồi trên lầu trông vào thành Đông Quan xem xét hoạt động của quân Minh; Nguyễn Trãi ngồi hầu ở ngay tầng dưới để bàn luận quân cơ và thảo thư từ đi lại. Tại đây, Nguyễn Trãi đã viết hàng chục bức thư gửi vào thành Đông Quan chiêu dụ Vương Thông, gửi đi Nghệ An chiêu dụ Thái Phúc cũng như dụ hàng các tướng lĩnh nhà Minh ở Tân Bình, Thuận Hoá và một số thành trì khác. Kết quả đạt được rất khả quan: các thành Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hoá ra hàng đầu năm 1427. Bản thân Nguyễn Trãi cũng đã từng cùng với viên chỉ huy họ Tăng vào dụ hàng thành Tam Giang, khiến Chỉ huy sứ thành này là Lưu Thanh ra hàng vào khoảng tháng 4 năm 1427. Ông cũng đã đem thân vào dụ hàng thành Đông Quan năm lần, quân Minh ở Giao Chỉ càng bị cô lập nhanh chóng, chỉ còn cố thủ được ở một số thành như Đông Quan, Cổ Lộng, Tây Đô... mà thôi. Cuối năm 1427, Minh Tuyên Tông xuống chiếu điều binh cứu viện Vương Thông, sai Liễu Thăng đem 10 vạn quân từ Quảng Tây, Mộc Thạnh đem 5 vạn quân từ Vân Nam, cùng tiến quân sang Việt Nam. Với trận Chi Lăng - Xương Giang, hai đạo viện binh của nhà Minh với số lượng lên tới hơn 10 vạn quân đã bị quân Lam Sơn tiêu diệt hoàn toàn.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tháng 11/1427, tổng binh Vương Thông và nội quan Sơn Thọ nhà Minh sai viên thiên hộ họ Hạ mang thư đến giảng hoà, xin mở cho đường về. Lê Lợi chấp nhận, lại gởi tặng thổ sản và hải sản. Dẫu vậy, Vương Thông vấn do dự, chưa quyết, đem quân ra đánh, bị nghĩa quân đánh bại, suýt bị bắt sống. Ngày 22/11/1427 (Đinh Mùi), Vương Thông và Lê Lợi tiến hành Hội thề Đông Quan ở cửa nam thành, hẹn đến ngày 12/12 năm Đinh Mùi sẽ rút hết quân về nước. Lúc bấy giờ, một số tướng sĩ đến yết kiến và khuyên Lê Lợi nên đánh thành Đông Quan, giết hết quân Minh để trả thù cho sự bạo ngược mà người Minh đã gây nên ở Đại Việt. Nhưng ý kiến của Nguyễn Trãi thì lại khác. Ông xem thư bọc sáp của Vương Thông gửi về nước nói "Chớ tham chỗ đất một góc mà làm nhọc quân đi muôn dặm; giả sử dùng quân được như số quân đi đánh khi đầu, lại được sáu, bảy, tám đại tướng như bọn Trương Phụ thì mới có thể đánh được; tuy nhiên có đánh được cũng không thể giữ được", nên biết rõ thế mạnh yếu của giặc, mới chuyên chủ mặt chủ hoà. Lê Lợi nghe theo cho quân giải vây rút ra. Khi quân Minh sắp rút đi, một số tướng khuyên Lê Lợi nên đánh thêm một trận để cho giặc không dám sang nữa nhưng Lê Lợi không đồng ý, quân Minh rút về nước an toàn. Năm 1428, nhà Hậu Lê hình thành.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Đầu năm 1428, ngay cả khi chưa chính thức lên ngôi vua, Bình Định Vương đã đại hội các tướng và các quan văn võ, định công ban thưởng. Nguyễn Trãi được ban cho quốc tính (họ Lê) và tước Quan phục hầu, tiếp tục giữ chức Nhập nội Hành khiển như cũ, được khắc tên trên biển Khai quốc công thần. Ngày 29 tháng 4 năm 1428, Lê Lợi làm lễ lên ngôi ở điện Kính Thiên tại Đông Kinh, đại xá thiên hạ, giao cho Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo để bố cáo với cả nước về việc chiến thắng quân Minh. Năm 1429, Lê Thái Tổ sai khắc biển công thần, ông được phong tước Á hầu. Năm 1433, Lê Thái Tổ mất, an táng ở Vĩnh Lăng tại Lam Sơn. Lê Thái Tông xuống sắc chỉ sai Nguyễn Trãi, với tư cách là Vinh lộc Đại phu Nhập nội Hành khiển tri Tam quán sự, soạn văn bia Vĩnh Lăng thần đạo bi.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Ngày 21/02/1434, Lê Thái Tông bổ nhiệm 156 quan viên lớn nhỏ, trong số đó có Nguyễn Trãi. Tháng 5/1434 Nguyễn Trãi đang giữ chức Hành khiển, soạn xong tờ tâu để Nguyễn Tông Trụ mang sang đưa lên vua Minh, bị Nội mật viện Nguyễn Thúc Huệ, Học sĩ Lê Cảnh Xước, Đại tư đồ Sát và Đô đốc Phạm Vấn phản đối và trách cứ và đòi sửa chữa. Nguyễn Trãi kiên quyết giữ chủ kiến của mình, cuối cùng Lê Thái Tông vẫn theo như bản tâu của ông, không thay đổi. Tháng 12/1434, Nguyễn Trãi cùng các đại thần theo vua Lê Thái Tông làm lễ rước thần chủ mới của Thái Tổ và Quốc thái mẫu vào thờ ở Thái miếu. Năm 1435, Nguyễn Trãi dâng lên vua sách Dư địa chí, trong đó ông ghi chép khá đầy đủ về bờ cõi hành chính nước Đại Việt thời đó. Tháng 6, Đại tư đồ Lê Sát tiến cử Nguyễn Trãi và một số viên quan khác vào dạy học cho Lê Thái Tông ở toà Kinh Diên nhưng vua Lê Thái Tông không chấp thuận. Trong vụ án bảy tên trộm vào tháng 3, ông tranh cãi với Lê Sát và Lê Ngân về việc xử lý bảy tên ăn trộm ít tuổi can tội tái phạm. Ông khuyên Lê Thái Tông nên nhân nghĩa, nhưng khi Lê Sát và Lê Ngân đề nghị ông dùng nhân nghĩa cảm hóa kẻ trộm thì ông từ chối. Cuối cùng xử chém 2 tên, còn lại thì xử đi đày. </div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Trước đây, Lê Thái Tổ đã sai Nguyễn Trãi định ra quy chế mũ áo nhưng chưa kịp thi hành. Tháng 2/1437, vua Lê Thái Tông lại sai Nguyễn Trãi cùng với Lương Đăng sửa định nhã nhạc và quy chế lễ nghi trong triều đình. Nguyễn Trãi đã dâng lên bản vẽ khánh đá và biểu tâu, vua Thái Tông khen ngợi và tiếp nhận sai thợ đá huyện Giáp Sơn lấy đá ở núi Kính Chủ để làm. Nhưng đến tháng 5, Lương Đăng dâng sớ thư về quy chế có nhiều ý kiến khác với Nguyễn Trãi ở những chỗ bàn về số lượng, trọng lượng các nhạc khí. Vua Thái Tông lựa chọn đề nghị của Lương Đăng, nên Nguyễn Trãi tâu xin trả lại việc đã được giao phó. Tháng 11, vua Lê Thái Tông cho ban bố các nghi thức lễ đại triều do Lương Đăng soạn định với triều đình, Nguyễn Trãi cùng một nhóm văn thần như Đào Công Soạn, Nguyễn Văn Huyến, Nguyễn Liễu, Nguyễn Truyền dâng sớ phản đối, nhưng không có kết quả. Cũng vì việc đó, Nguyễn Liễu bị "thích chữ vào mặt, đày ra châu xa". Khoảng cuối năm 1437, đầu năm 1438, Nguyễn Trãi xin về hưu trí ở Côn Sơn - nơi trước kia từng là thái ấp của ông ngoại ông - chỉ thỉnh thoảng mới vâng mệnh vào chầu vua.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Năm 1439, Lê Thái Tông mời ông ra làm quan, ban cho chức tước là Vinh lộc Đại phu, Nhập nội Hành khiển Môn hạ sảnh Tả ty Hữu Gián nghị Đại phu kiêm Hàn Lâm viện Học sĩ Tri Tam quán sự Đề cử Côn Sơn Tư Phúc tự. Ông cũng được giao cho việc coi giữ sổ sách, xét án kiện quân dân ở Tây đạo và Bắc đạo. Nguyễn Trãi nhận mệnh vua, dâng biểu tạ ơn với sự hả hê thấy rõ. Trong khoa thi Hội năm 1442, Nguyễn Trãi với danh nghĩa là Hàn Lâm viện Học sĩ kiêm Tri Tam quán sự ra làm Giám khảo và lấy đỗ Trạng nguyên Nguyễn Trực. Tháng 9/1442, vua Lê Thái Tông đi tuần ở miền Đông. Ngày 1/9/1442, sau khi nhà vua duyệt binh ở thành Chí Linh, Nguyễn Trãi đón Lê Thái Tông đi thuyền vào chơi chùa Côn Sơn. Khi trở về Đông Kinh, người thiếp của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ theo hầu vua. Ngày 7/9/1442, thuyền về đến Lệ Chi Viên thì vua bị bệnh, thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi mất. Các quan giấu kín chuyện này, nửa đêm ngày 9/9/1442 về đến Đông Kinh mới phát tang. Triều đình qui tội Nguyễn Thị Lộ giết vua, bèn bắt bà và Nguyễn Trãi, khép hai người vào âm mưu giết vua. </div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Ngày 19/09/1442 (tức ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất), Nguyễn Trãi bị giết cùng người thân 3 họ, gọi là tru di tam tộc. Sau khi Nguyễn Trãi chết, đa phần những di cảo thơ văn và trước tác của ông đều bị tiêu hủy. Bản khắc in sách Dư địa chí bị Đại Tư đồ Đinh Liệt sai hủy năm 1447. Nhiều trước tác mất vĩnh viễn đến nay như Luật thư, Ngọc đường di cảo, Giao tự đại lễ,... Gia quyến Nguyễn Trãi cũng lưu tán khi biến cố Lệ Chi Viên xảy đến. Tháng 8/1464, sau 22 năm, vua Lê Thánh Tông đã xuống chiếu chiêu tuyết cho Nguyễn Trãi, truy tặng ông tước hiệu là Tán Trù bá, bãi bỏ lệnh truy sát của triều đình với gia quyến Nguyễn Trãi và ra lệnh bổ dụng con cháu ông làm quan. Nguyễn Anh Vũ khi ấy đi thi đỗ Hương cống, bèn được nhà vua bổ nhiệm làm Tri huyện. Năm 1467, Lê Thánh Tông ra lệnh sưu tầm di cảo thơ văn Nguyễn Trãi. Sau khi Nguyễn Trãi bị nạn 70 năm, ngày 8 tháng 8 năm 1512, vua Lê Tương Dực truy tặng Nguyễn Trãi tước Tế Văn hầu</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><span style="color: #0b5394;"><b>Tác phẩm</b></span></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Về văn chính luận có: <i><b>Quân trung từ mệnh tập</b></i> (là tập sách gồm những văn thư do Nguyễn Trãi thay mặt Lê Thái Tổ gửi cho các tướng tá nhà Minh trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và văn răn tướng sĩ, từ năm 1423 đến năm 1427, hiện chỉ còn 69 văn thư); <b><i>Bình Ngô đại cáo</i></b> (bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam); và một số bài chiếu, biểu viết dưới thời Lê Thái Tổ và Lê Thái Tông (1433 - 1442).</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Về lịch sử có: <b><i>Lam Sơn thực lục</i></b> (là quyển lịch sử ký sự ghi chép về công cuộc 10 năm khởi nghĩa Lam Sơn, do vua Lê Thái Tổ sai soạn vào năm 1432); <b><i>Vĩnh Lăng thần đạo bi</i></b> (Bài văn do Nguyễn Trãi soạn năm 1433 tại bia Vĩnh Lăng - lăng của vua Lê Thái Tổ, kể lại thân thế và sự nghiệp của Lê Thái Tổ)</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Về địa lý có: <b><i>Dư địa chí</i></b> (hay còn có tên là Ức Trai di tập Nam Việt dư địa chí, Đại Việt địa dư chí, An Nam vũ cống, Nam Quốc vũ cống hoặc Lê triều cống pháp)</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Về thơ, phú có: <b><i>Ức Trai thi tập</i></b> (là tập thơ bằng chữ Hán của Nguyễn Trãi, gồm 105 bài thơ, trong đó có bài Côn Sơn ca nổi tiếng. Tập thơ này còn có những bài Nguyễn Trãi họa thơ với các viên quan thái thú nhà Minh lúc đó như Thượng thư Trần Hiệp, với bài <i>Thứ vận Trần thượng thư đề Nguyễn bố chánh thảo đường</i>, hoặc bài đề thơ với Ngự sử Hoàng Phúc, <i>Đề Hoàng ngự sử Mai Tuyết hiên</i>); <b><i>Quốc âm thi tập</i></b> (là tập thơ bằng chữ Nôm của Nguyễn Trãi, gồm 254 bài thơ, chia làm 4 mục: Vô đề (192 bài), Thời lệnh môn (21 bài), Hoa mộc môn (34 bài), Cầm thú môn (7 bài). Theo Trần Huy Liệu đây là tập thơ Nôm xưa nhất của Việt Nam còn lại đến nay. Bằng tập thơ này, Nguyễn Trãi là người đặt nền móng cho văn học chữ Nôm của Việt Nam); <i><b>Chí Linh sơn phú</b></i> (là bài phú bằng chữ Hán, kể lại sự kiện nghĩa quân Lam Sơn rút lên núi Chí Linh lần thứ ba vào năm 1422); <b><i>Băng Hồ di sự lục</i></b> (là thiên tản văn bằng chữ Hán do Nguyễn Trãi làm vào năm 1428, kể về cuộc đời Trần Nguyên Đán); <b><i>Sách Luật thư</i></b> (6 quyển, nay không còn, được Nguyễn Trãi soạn vào khoảng thời gian 1440-1441)</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Tưởng niệm</span></b></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><div>Năm 1956, Bộ Văn hóa nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổ chức lần đầu tiên lễ kỷ niệm Nguyễn Trãi nhân 514 năm ngày mất của ông.Sau đó, vào các năm 1962, 1967, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đều đặn kỉ niệm 520 năm và 525 năm ngày mất của Nguyễn Trãi và đã phát hành một bộ tem về ông vào năm 1962.Năm 1980, Tổ chức UNESCO của Liên Hợp Quốc đã tổ chức kỷ niệm 600 năm ngày sinh Nguyễn Trãi. Cũng trong năm đó, Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho phát hành một bộ tem về Nguyễn Trãi nhân kỉ niệm 600 năm ngày sinh của ông.</div><div><br /></div><div>Đền thờ Nguyễn Trãi ở Nhị Khê, Hà Nội vốn là từ đường của họ Nguyễn Nhị Khê, được xây dựng sau khi vua Lê Thánh Tông chiêu tuyết cho ông. Đền còn lưu giữ bức chân dung Nguyễn Trãi cổ vẽ trên lụa và nhiều bức hoành phi nêu bật công lao và đức độ Nguyễn Trãi. Nhân dịp kỷ niệm 600 năm ngày sinh của Nguyễn Trãi, nhà thờ đã được tôn tạo mở rộng, có thêm phòng trưng bày về thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Trãi và tượng đài Nguyễn Trãi. Đền được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa vào tháng 01/1964.</div><div><br /></div><div>Đền thờ Nguyễn Trãi ở Côn Sơn, Hải Dương được khởi công xây dựng vào năm 2000 và khánh thành vào năm 2002. Tọa lạc tại khu vực động Thanh Hư, đền có mặt bằng rộng 10.000 m2, xoải dốc dưới chân dãy Ngũ Nhạc kề liền núi Kỳ Lân, chia thành nhiều cấp, tạo chiều sâu và tăng tính uy nghiêm. Nghệ thuật trang trí mô phỏng phong cách Lê và Nguyễn. Đền đã được công nhận Di tích nghệ thuật kiến trúc năm 2003. Ngoài ra, Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ cũng được thờ ở làng Khuyến Lương, nay là phường Trần Phú, quận Hoàng Mai và ở xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm, Hà Nội.</div></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Con đường</span></b></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Hà Nội: nối đường Lương Ngọc Quyến với Ngã tư Sở - quận Thanh Xuân, Hà Đông</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Đà Nẵng: nối đường Trần Bình Trọng với Ông Ích Khiêm - Q. Hải Châu</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Tuyên Quang: nối Ngã ba Cầu Chả với Lương Sơn Tuyết - TP. Tuyên Quang</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Long Xuyên – An Giang: nối ngã tư Đèn Bốn Ngọn với đường Kim Đồng – phường Mỹ Long</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Thừa Thiên Huế: nối đường Đặng Tất với Lê Duẩn – TP. Huế</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại TP.HCM: </div><div style="text-align: justify;">- Nối ngã sáu Phù Đổng với Hồng Bàng – quận 1 và quận 5</div></div><div style="text-align: justify;">- Nối đường Ngô Quyền với Trần Hưng Đạo - TP. Thủ Đức</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><b><div style="text-align: center;"><b><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d22173.533289612544!2d106.66078122234947!3d10.752667970452045!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x31752ef40f3e44db%3A0x9e8b8b3ffe3ec101!2zTmd1eeG7hW4gVHLDo2ksIFRow6BuaCBwaOG7kSBI4buTIENow60gTWluaCwgVmnhu4d0IE5hbQ!5e0!3m2!1svi!2s!4v1633706836808!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe></b></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: red;"><br /></span></b></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: red;">Thiên Linh</span></b></div></b>Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-9118728316928300490.post-53359809041061276312019-08-01T12:30:00.002+07:002021-10-16T20:18:53.437+07:00DNQTĐ: Bùi Huy Bích và Bùi Bỉnh Uyên<div style="text-align: justify;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgNcfcArb4J8Yv5pCVyFLavja82DkBmRsZa0mkO_mF_qIaXs_geeeCnuzr8NEPJWOh1xKzfjeyv406f4tjfbduC5ZksEriM9f1_Qjn-IC3zn1sCMN_Uo-otW-qaBwtw9TDYfPtFEyeHWqY/s1600/Slide30.PNG" style="clear: right; float: right; margin-bottom: 1em; margin-left: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgNcfcArb4J8Yv5pCVyFLavja82DkBmRsZa0mkO_mF_qIaXs_geeeCnuzr8NEPJWOh1xKzfjeyv406f4tjfbduC5ZksEriM9f1_Qjn-IC3zn1sCMN_Uo-otW-qaBwtw9TDYfPtFEyeHWqY/s320/Slide30.PNG" width="320" /></a><b><span style="color: #b45f06; font-size: large;">Bùi Huy Bích </span></b>- 裴輝璧 (03/10/1744 - 1818), tự là Hy Chương (熙章), hiệu là Tồn Am và Tồn Ông, là một danh nhân, danh sĩ người Hà Nội, từng giữ chức Tham tụng (tương đương chức thủ tướng) trong triều đình dưới thời vua Lê-chúa Trịnh.<br />
</div><div style="text-align: justify;"><br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: #0b5394;">Cuộc đời</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Ông sinh ngày 28 tháng 8 năm Giáp Tý (1744), quê làng Định Công, Hà Nội. Ông là cháu 5 đời của Tiên Quận công Bùi Bỉnh Uyên, cháu 7 đời của Quảng Quận công Bùi Xương Trạch. Cha là Bùi Dụng Tân, hiệu Trúc Viên cư sĩ, dạy học ở nhà. Bùi Huy Bích có 1 chị và 1 em trai. Năm ông lên 5 tuổi, mẹ ông mất, cha ông mang 3 chị em lên Hải Dương, ở làng An Lâu, huyện Thanh Miện. Trúc Viên dạy học tại đó. Thuở nhỏ Tồn Am thể chất kém, thường đau ốm luôn, bề ngoài có vẻ "lỗ độn" nhưng trong lại có khiếu thông minh. Không những Bùi Huy Bích chóng học thuộc sách mà ngay cả với cuộc sống cũng tỏ ra am hiểu. Thuở nhỏ ông học ở nhà, 17 tuổi theo học Nguyễn Bá Trữ. </div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Năm 19 tuổi (1762), đi thi đỗ ngay hương cống nhưng trượt thi hội vào năm sau (1763). Ông về học tiếp bảng nhãn Lê Quý Đôn mở tại kinh thành, nhưng bất mãn trước cảnh xã hội nên không theo tiếp con đường tiến sĩ. Để chiều lòng cha, mãi năm ông 25 tuổi (1770) ông đi thi và đỗ thi hội rồi đỗ thi đình, đỗ Hoàng giáp. Sau khi đỗ, ông được bổ dụng làm Hàn lâm viện hiệu lý, lên chức Thị Chế (năm 1771), rồi được thụ chức Thiêm sai phủ liêu Tri hộ phiên, kiêm chức Đông các Hiệu thư. Năm 1777, ông vào lĩnh chức Đốc đồng Nghệ An rồi lại phụng sai vào Thuận Hóa tuyên dụ. Trong thời gian này ông đã có công bình loạn giặc Mường Thai ở miền tây Nghệ An. Sau công trạng đó, năm 1780 ông được thăng lên Hiệp trấn Nghệ An kiêm thụ lĩnh chức tham chính. </div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Đến năm Tân Sửu (1781), ông được chúa Trịnh Sâm triệu về triều, trao cho chức Nhập thị Bồi tụng, chức đứng hàng thứ 2 trong phủ chúa sau chức Bồi tụng, nhưng ông đệ khải văn xin từ chức, lấy cớ là ốm yếu, dù khi đó mới 38 tuổi và có quan hệ họ hàng với Trịnh Sâm, nhưng bản thân ông không muốn gần gũi với Trịnh Sâm. Ông là người đã đứng ra can gián Trịnh Sâm khi chúa định bỏ con trưởng Trịnh Tông để lập con nhỏ Trịnh Cán của Tuyên phi Đặng Thị Huệ được sủng ái, nhưng không thành. Chính vì Trịnh Sâm lập con nhỏ nên đã xảy ra loạn trong triều sau khi chúa qua đời. Trịnh Tông lật đổ Trịnh Cán lên ngôi, cách chức Tham tụng của Phan Lê Phiên (vì Phiên cùng phe với mẹ con Trịnh Cán) và mời Bùi Huy Bích ra làm Hành Tham tụng, hy vọng ông có thể cứu vãn tình thế do loạn kiêu binh gây ra. Sau xảy ra nhiều chuyện, lại do ngờ vực, ông từ quan về dưỡng bệnh tại phường Bích Câu, Hà Nội, gần đền Tú Uyên.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Năm 1786, quân Tây Sơn lấy danh nghĩa "Phù Lê diệt Trịnh" kéo ra bắc, Trịnh Tông điều ông ra mặt trận làm chức đốc chiến. Ông định đến đò Thuý Ái để phối hợp với Hoàng Phùng Cơ chỉ huy thuỷ quân, nhưng chưa đến nơi thì quân Phùng Cơ đã tan vỡ, quân Tây Sơn thần tốc tiến vào Thăng Long. Tây Sơn diệt Trịnh không lâu thì Lê Hiển Tông mất, cháu là Lê Chiêu Thống lên thay, Nguyễn Huệ rút quân về nam. Chiêu Thống mời Bùi Huy Bích ra giúp nhưng ông xin từ về quê nhà.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Khi Nguyễn Huệ lên ngôi vua và đánh tan quân Thanh (1789) có mời các danh thần nhà Hậu Lê ra giúp nước nhưng ông không hợp tác. Đến đời Nguyễn Ánh, ông được trọng đãi nhưng ông vẫn xin được sống an nhàn ở quê cho đến khi qua đời ngày 25 tháng 5 năm 1818, thọ 75 tuổi.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: #0b5394;">Tác phẩm</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Bùi Huy Bích viết nhiều, trong đó thơ của ông để lại ba bộ, tổng cộng 681 bài thơ: <i><b>Bích Câu thi tập</b></i>, gồm 2 tập là tiền tập và hạ tập, <i><b>Nghệ An thi tập</b></i> gồm 2 tập, <b><i>Thoái hiên thi tập</i></b> gồm 3 tập. Về văn có: <i><b>Tồn Am văn cảo, Lữ trung tạp thuyết, Quốc triều chính biên điển lục</b></i></div>
<div style="text-align: justify;">
<i><b><br /></b></i></div>
<div style="text-align: justify;">
Các tập văn thơ ông sưu tập và hợp tuyển: ghi chép từ thời Lý Trần đến thời Lê Hiển Tông:<b><i> Hoàng Việt thi tuyển</i></b>: gồm 562 bài của 167 tác giả. <i><b>Hoàng Việt văn tuyển</b></i>: 112 bài, gồm 15 bài phú, 15 bài ký, 9 bài tế, 9 bài minh, 25 bài chiếu chế, 22 bài khải, 11 bài tản văn, 6 bài biểu tấu. </div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Thơ văn của ông phần nhiều tự sự về nhân tình thế thái, tự phê phán bản thân bất lực không làm được gì nhiều giúp dân giúp nước; đồng thời công kích sư sa đoạ của kể sĩ và quan lại đương thời và phê phán quan điểm lệch lạc của các nhà Nho. Bùi Huy Bích không đồng nhất quan điểm cho rằng từ thời Sĩ Nhiếp Việt Nam mới có chữ viết mà ông cho rằng Việt Nam đã có chữ viết trước đó nhiều</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: #0b5394;">Con đường</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: #0b5394;"><br /></span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
Tại Đà Nẵng: nối đường Hoa Lư với Bùi Dương Lịch – quận Sơn Trà</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Tại Hà Nội: nối đường Vành đai 3 với đường Giải phóng – quận Hoàng Mai</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Khánh Hoà: nối đường Đệ với Ngô Văn Sở - TP. Nha Trang</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Tại tph. HCM: nối đường Nguyễn Duy với Bến Bình Đông – quận 8</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div><div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d2330.7855985689243!2d106.65187473742388!3d10.74230493486912!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x31752e67512cfb07%3A0xa419ec2aa6cef587!2zQsO5aSBIdXkgQsOtY2gsIFF14bqtbiA4LCBUaMOgbmggcGjhu5EgSOG7kyBDaMOtIE1pbmgsIFZp4buHdCBOYW0!5e0!3m2!1svi!2s!4v1634390214853!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe></div><div style="text-align: center;"><br /></div><div style="text-align: center;"><br /></div><div style="text-align: justify;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj1KXOZrVdXR5CG5ggk4zC5qcjzdtudpqn7j85M0phzWRmHKC6g4dPWrkp56XPchq3jvfDJ4T9b6DOLY6MEBCkt5zmGwaTqXH4kXWIIS-i637Z1oogyvleoIvs_M7NejOvYdl33kPIKmyc/s1600/Slide31.PNG" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj1KXOZrVdXR5CG5ggk4zC5qcjzdtudpqn7j85M0phzWRmHKC6g4dPWrkp56XPchq3jvfDJ4T9b6DOLY6MEBCkt5zmGwaTqXH4kXWIIS-i637Z1oogyvleoIvs_M7NejOvYdl33kPIKmyc/s320/Slide31.PNG" width="320" /></a><b><span style="color: #b45f06; font-size: large;">Bùi Bỉnh Uyên</span></b> (1520 - 1614) là công thần giúp nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: #0b5394;">Cuộc đời</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Bùi Bỉnh Uyên tự là Chuyết Phu, người làng Định Công, huyện Thanh Đàm, nay thuộc quận Hoàng Mai (Hà Nội). Ông là cháu tiến sĩ Bùi Xương Trạch thời Lê sơ và con bảng nhãn Bùi Vịnh thời Mạc. Lớn lên, ông lấy con gái đại thần Lê Bá Ly nhà Mạc. Từ nhỏ, Bùi Bỉnh Uyên có học vấn rộng rãi, văn chương hoa mỹ. Ông lớn lên khi chiến tranh Lê-Mạc đến thời kỳ ác liệt. Khi đi thi Hương với nhà Mạc, ông đỗ Tam trường, khi đi thi Hội thì nhà có tang nên ông bỏ thi.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Năm 1551, thời Mạc Tuyên Tông - Lê Trung Tông, vì phe Lê Bá Ly có mâu thuẫn với vua Mạc, ông cùng bác là Bùi Trụ mang cả họ theo cha vợ là Lê Bá Ly vào Thanh Hóa theo nhà Lê. Sang thời Lê Anh Tông, Bùi Bỉnh Uyên trở thành người phục vụ đắc lực cho triều đình, được phong là Tuyên lực công thần. Năm 1591 thời Lê Thế Tông, ông theo chiến dịch đánh chiếm Thăng Long, được phong làm Thuấn tín công thần. Nhà Lê trở lại Thăng Long, ông lĩnh chức Phủ doãn phủ Phụng Thiên, Thị lang bộ Hình, bộ Hộ. Năm 1593, lực lượng họ Mạc còn mạnh, vua Lê đi đánh Mạc Kính Chỉ, giao cho Bùi Bỉnh Uyên ở lại trấn thủ Tây Kinh. Sau đó ông được thăng làm Thượng thư bộ Lễ, rồi kiêm làm Thượng thư bộ Binh, tước Văn Phong hầu.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Năm 1597, nhà Lê trung hưng muốn thông hiếu với nhà Minh để cầu phong. Con cháu nhà Mạc sang Trung Quốc nói với nhà Minh rằng chính quyền nhà Lê trung hưng là của họ Trịnh chứ không phải nhà Lê, vì vậy nhà Minh yêu cầu triều đình nhà Lê đến biên giới hội khám để đối chất là thực hay dối. Bùi Bỉnh Uyên nhận trách nhiệm lên Ải Nam Quan đối đáp với các quan lại nhà Minh chất vấn. Do Bùi Bỉnh Uyên đối đáp cứng cỏi lưu loát, khiến nhà Minh công nhận Lê Thế Tông là con cháu nhà Lê. Xong việc trở về, ông được gia phong làm công thần. Năm 1604, ông đã 85 tuổi, xin về hưu. Ít lâu sau triều đình lại mời ông ra làm quốc lão hầu cận.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Năm 1614, ông mất, thọ 95 tuổi, được truy tặng chức Thiếu bảo, thụy là Cung Ý. Đến thời Lê Thuần Tông, ông được truy phong làm Thái bảo, Tiên quận công.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: #0b5394;">Con đường</span></b></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;"><br /></span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
Tại Đà Nẵng: nối đường Hoàng Bình Chính với Nguyễn Nghiễm – quận Ngũ Hành Sơn</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div><div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d3835.3191894102056!2d108.26500851415581!3d15.996891240248878!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x314210c134a413dd%3A0x9ded3bb69f1f9332!2zQsO5aSBC4buJbmggVXnDqm4sIEjDsmEgSOG6o2ksIE5nxakgSMOgbmggU8ahbiwgxJDDoCBO4bq1bmcgNTUwMDAwLCBWaeG7h3QgTmFt!5e0!3m2!1svi!2s!4v1634390065671!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe></div><div style="text-align: center;"><br /></div><div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: red;">Thiên Linh</span></b></div>
Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-9118728316928300490.post-5426464995259610372019-07-18T15:00:00.001+07:002021-10-16T20:10:34.056+07:00DNQTĐ: Lương Như Hộc<div style="text-align: justify;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhZAjBTFjgrAoZOeyP6Ahms0E3ule2GpWfEO9oIG13bcfVopllGxjA2SiYuCrgMCxQNvfUPSD7hu1BQNoeL7Ki-cw5lcgBtZdPpG389GOWE4VBejgIJsJVBvhsk7mea7A7UAJQRj3_lT30/s1600/Slide29.PNG" style="clear: right; float: right; margin-bottom: 1em; margin-left: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhZAjBTFjgrAoZOeyP6Ahms0E3ule2GpWfEO9oIG13bcfVopllGxjA2SiYuCrgMCxQNvfUPSD7hu1BQNoeL7Ki-cw5lcgBtZdPpG389GOWE4VBejgIJsJVBvhsk7mea7A7UAJQRj3_lT30/s320/Slide29.PNG" width="320" /></a><span style="color: #b45f06; font-size: large;"><b>Lương Như Hộc</b></span> - 梁 如 鵠 (1420 - 1501), tự Tường Phủ, hiệu Hồng Châu, là danh sĩ, quan nhà Lê sơ. Ông là người hai lần làm sứ giả sang Trung Quốc và đã có công truyền lại nghề khắc bản gỗ in cho dân làng Liễu Tràng, Hồng Lục và được tôn xưng là "ông tổ nghề khắc ván in".</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: #0b5394;">Cuộc đời</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Lương Như Hộc quê ở xã Hồng Liễu, huyện Trường Tân (nay là thôn Thanh Liễu, xã Tân Hưng, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương). Ông đỗ thám hoa khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442 - đời Lê Thái Tông), cùng khoa với Nguyễn Trực, Nguyễn Như Đổ và Ngô Sĩ Liên</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Ông đã từng hai lần đi sứ sang nhà Minh. Lần thứ nhất vào ngày 16 tháng 11 âm lịch năm Thái Hòa thứ nhất (Quý Hợi, 1443), đời Lê Nhân Tông, khi đang là Ngự tiền học sinh cục trưởng, ông cùng với Tri chế cáo Nguyễn Như Đổ và Ngự sử trung thừa Hà Phủ được sung vào đoàn sứ bộ sang Minh đáp tạ về việc tế điếu. Lần thứ hai vào tháng 10 âm lịch năm Thiên Hưng thứ nhất (1459), sau khi Lê Nghi Dân tiếm ngôi vua, đã sai Lương Như Hộc cùng Trần Phong, Trần Bá Linh sang nhà Minh cầu phong.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Tháng 11 âm lịch năm Thái Hòa thứ 7 (1449) thời Lê Nhân Tông, ông được thăng từ An phủ phó sứ lộ Quốc Oai Hạ lên Hàn lâm trực học sĩ. Tháng 3 âm lịch năm Quang Thuận thứ 4 (1463) thời Lê Thánh Tông: Môn hạ hữu ti lang trung Hoàng Thanh mất. Ông (khi đó là Lễ bộ tả thị lang) đã làm bài tán đề di tượng (tượng truyền thần) của Hoàng Thanh rằng: "<i>Nói về đạo lý, thì uẩn súc bên trong được đầy đủ, thi thố ra ngoài được chu đáo; nói về bổn phận, thì làm con giữ hết đạo hiếu, làm tôi giữ hết đạo trung, từng trải thờ bốn triều vua, tiết tháo một lòng, trước sau không bao giờ thay đổi</i>". Tháng 12 âm lịch năm 1463, vua Thánh Tông ban cho ông sắc dụ: ""<i>Mới rồi, Nguyễn Vĩnh Trinh không học thể thơ quốc ngữ, làm thơ không đúng phép. Ta tưởng là ngươi biết, nên mới hỏi thử ngươi, nhưng ngươi cũng không biết nốt. Vả ta xem Hồng Châu quốc ngữ thi tập của ngươi còn nhiều chỗ thất luật, ta chắc là ngươi chưa biết nên mới nói ra. Vũ Lãm thường không muốn ta nói cho ngươi biết đâu</i>".</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Tháng 12 âm lịch năm 1467, Bảo tỉ truyền quốc đã khắc xong, lấy chữ Hoàng đế thụ mệnh chi bảo do ông tham khảo đề xướng. Trong suốt cuộc đời làm quan của mình, ông đã làm quan đến Thị lang, Gia trung thư lệnh và Đô ngự sử. Lương Như Hộc mất vào năm Tân Dậu (1501), hưởng thọ 82 tuổi.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: #0b5394;">Công lao truyền bá nghề in</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Nhờ hai lần đi sứ sang Trung Quốc, ông đã học được nghề in mộc bản ở đây. Khi về nước, ông đã truyền bá nghề này cho nhân dân hai làng Liễu Tràng, Hồng Lục ở quê ông, khiến nghề in nơi đây trở nên phát triển. Chính vì lẽ đó, ông đã được coi là ông tổ sáng lập ra nghề in ở Việt Nam. </div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Mặc dù nghề in đã có trước đó, nhưng nó chỉ lưu hành trong phạm vi Phật giáo và quản lý nhà nước. Nhờ có sự truyền dạy của ông, làng Liễu Tràng - Hồng Lục đã trở thành trung tâm khắc ván in chữ và sau là tranh khắc của cả nước. Nhiều bộ sách đã được in khắc ở đây, trong đó phải kể đến bộ Đại Việt sử ký toàn thư đồ sộ đã được những người thợ làng Hồng Lục, Liễu Tràng khắc đầy đủ lần đầu tiên vào năm 1697. Để ghi nhận công lao, dân làng Liễu Tràng đã lập đền thờ, tôn ông làm Thành hoàng và coi là tổ nghề của họ. Hiện nay vẫn còn ngôi đình thờ Thám hoa ở làng Liễu Tràng, đã được xếp hạng năm 1992, thường tổ chức lễ hội vào ngày 13-15 tháng 9 (âm lịch) hàng năm</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: #0b5394;">Tác phẩm</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Ông đã biên soạn một số tập sách như <b><i>Cổ kim chế từ tập</i></b>, tập hợp các bài từ từ thời cổ đến thời Lê; và sáng tác <i><b>Hồng Châu quốc ngữ thi tập</b></i> là tập thơ chữ Nôm. Hiện nay cả hai đều đã thất truyền. Ông cũng phê điểm cho tuyển tập thơ Tinh tuyển chư gia luật thi của Dương Đức Nhan (gồm 472 bài của các nhà thơ đời Trần-Lê). Hiện nay chỉ còn lại 6 bài phú chữ Hán trong Quần hiền phú tập (Hoàng Sằn Phu) và 6 bài thơ chữ Hán trong Trích diễm thi tập (Hoàng Đức Lương) và Toàn Việt thi lục (Lê Quý Đôn).</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: #0b5394;">Con đường</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Tại Đà Nẵng: nối đường Tiểu La với Xô viết Nghệ Tĩnh – quận Hải Châu, Cẩm Lệ</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Tại tph. HCM: nối đường Phạm Hữu Chí với Võ Văn Kiệt – quận 5</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Kiên Giang: nối đường 3/2 với Phạm Hùng - TP. Rạch Giá</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Tại Huế: nối đường Trần Đại Nghĩa với Nguyễn Hữu Thận - TP. Huế</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div><div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d3919.7672422701216!2d106.65970687174938!3d10.752413632925284!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x31752ef6c9b6d735%3A0x807d81bfffd525e1!2zTMawxqFuZyBOaOG7ryBI4buNYywgcGjGsOG7nW5nIDExLCBRdeG6rW4gNSwgVGjDoG5oIHBo4buRIEjhu5MgQ2jDrSBNaW5oLCBWaeG7h3QgTmFt!5e0!3m2!1svi!2s!4v1634389775567!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe></div><div style="text-align: center;"><br /></div><div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: red;">Thiên Linh</span></b></div>
Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-9118728316928300490.post-54023911051579912892019-07-16T10:30:00.001+07:002021-10-16T20:05:56.992+07:00DNQTĐ: Bùi Xương Trạch và Nguyễn Đức Trung<div style="text-align: justify;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgSAbgTyGoS52TQNIs4AC6PwDtHpcsdiqVgvMzfiuYYxDGBbR0QYXAuFKZFV2j7A25oEqYdXLnBp3oI99Lpuqe6Bgsm4KNeYERR1N1FgsfWleWj_lyrZ2upPDDOXaQVJNmt7uKzn8yzkoo/s1600/Slide27.PNG" style="clear: right; float: right; margin-bottom: 1em; margin-left: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgSAbgTyGoS52TQNIs4AC6PwDtHpcsdiqVgvMzfiuYYxDGBbR0QYXAuFKZFV2j7A25oEqYdXLnBp3oI99Lpuqe6Bgsm4KNeYERR1N1FgsfWleWj_lyrZ2upPDDOXaQVJNmt7uKzn8yzkoo/s320/Slide27.PNG" width="320" /></a><b><span style="color: #b45f06; font-size: large;">Bùi Xương Trạch</span></b> - 裴昌澤 (1451 - 1529) là quan nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Ông là một thành viên của gia tộc họ Bùi làng Thịnh Liệt nổi tiếng ở Hà Nội.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div>
<div style="text-align: justify;">
</div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: #0b5394;">Cuộc đời</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Bùi Xương Trạch người làng Định Công, quận Hoàng Mai, Hà Nội. Từ nhỏ ông vừa làm việc đồng áng vừa chăm chỉ học hành, thường bắt đom đóm cho vào túi để lấy ánh sáng đọc sách</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Năm 28 tuổi ông đỗ tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1478) triều Hồng Đức (Lê Thánh Tông). Khi bảng yết tên ông được công bố, ông vẫn đang cày ruộng, việc này khiến ông được mọi người trong làng coi trọng. Lê Thánh Tông cho ông vào làm việc trong Viện Hàn lâm. Khi Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành (1471), ông theo ra trận, coi việc quân có góp công. Mùa đông năm 1489, ông vâng mệnh đi sứ Trung Quốc cống nhà Minh. Năm 1493, ông vâng mệnh soạn bài ký đình Quảng Văn. Bài văn hay nổi tiếng, được vua Thánh Tông khen thưởng và còn được truyền lại đến nay</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Thời Lê Hiến Tông, ông được thăng làm Hiệu thư Đồng tác, rồi đổi sang làm Thiêm đô ngự sử, Thượng thư bộ Binh, Tế tửu Quốc Tử Giám coi việc tòa Kinh diên... cũng như Thượng thư Trưởng Lục bộ (một chức vụ quan trọng điều khiển cả sáu bộ, tương đương như Tể tướng) kiêm Đô Ngự sử, và được vua phong tước Quảng Văn Hầu. Ông nổi tiếng là người thanh liêm, được nhiều người kính phục.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Năm 1520 thời Lê Cung Hoàng, ông đã 70 tuổi, bèn xin nghỉ hưu. Khi đó Mạc Đăng Dung đã khống chế triều đình nhà Lê và tới năm 1527 thì giành ngôi nhà Lê. Năm 1529 thời Mạc Thái Tổ, ông qua đời, thọ 79 tuổi. Về sau nhà Lê trung hưng truy phong tặng ông chức Thái phó, tước Quảng Quốc công và tên hiệu là Văn Lượng</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Tác phẩm nổi tiếng của Bùi Xương Trạch là bài <i><b>ký Quảng Văn Đình.</b></i></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: #0b5394;">Con đường</span></b></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;"><br /></span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
Tại Hà Nội: nối đường Khương Hạ với Định Công Thượng – quận Thanh Xuân</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Đà Nẵng: nối đường Thành Thái với Lê Đại Hành - Q. Cẩm Lệ</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Vĩnh Phúc: nối đường Nguyễn Tư Phúc với Nguyễn Tri Phương - TP. Vĩnh Yên</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại TP. HCM: từ đường Nguyễn Duy Trinh đi đến hết đường - TP. Thủ Đức</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /><div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d4660.601553492278!2d106.81028826792073!3d10.80494428590512!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x317526b6818be4b7%3A0xa479962555d16e64!2zQsO5aSBYxrDGoW5nIFRy4bqhY2gsIExvbmcgVHLGsOG7nW5nLCBRdeG6rW4gOSwgVGjDoG5oIHBo4buRIEjhu5MgQ2jDrSBNaW5oLCBWaeG7h3QgTmFt!5e0!3m2!1svi!2s!4v1633701542856!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe></div><div style="text-align: center;"><br /></div><div style="text-align: center;"><br /></div></div>
<div style="text-align: justify;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhkdc3NCAft6iwMS8G2_Ny1OUkpM8xmVfTAWUnoII-mNm_tFu9HhyphenhyphenjonEwMMLwT5j7eI7Ft3eIDXwBMXtVeiwfX5_Tn09UqF8my7REj5hQw6NVB_jWcPQe0OyDuEFMt3IvKYl73W-tovnk/s1600/Slide28.PNG" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhkdc3NCAft6iwMS8G2_Ny1OUkpM8xmVfTAWUnoII-mNm_tFu9HhyphenhyphenjonEwMMLwT5j7eI7Ft3eIDXwBMXtVeiwfX5_Tn09UqF8my7REj5hQw6NVB_jWcPQe0OyDuEFMt3IvKYl73W-tovnk/s320/Slide28.PNG" width="320" /></a><b><span style="color: #b45f06; font-size: large;">Nguyễn Đức Trung</span></b> - 阮德忠 (1404 - 1477) là một công thần nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam, người làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, Thanh Hóa, Việt Nam.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: #0b5394;">Cuộc đời</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Nguyễn Đức Trung là con của công thần khai quốc nhà Lê sơ Nguyễn Công Duẫn (阮公允). Ông nối chí cha làm quan từ đầu thời nhà Lê. Thời Lê Nhân Tông, ông giữ chức Điện tiền chỉ huy sứ.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Ngày 6 tháng 6, năm 1460, ông cùng các đại thần là Nguyễn Xí, Đinh Liệt, Lê Lăng, Lê Niệm, Lê Nhân Thuận, Lê Nhân Khoái,… phát động binh biến, chém bầy tôi thân cận của Nghi Dân là Phạm Đồn, Phan Ban ở nghị sự đường, nắm lấy cấm binh, đóng chặt cửa thành, sai Lê Ninh Thuận bắt vây cánh và phế Thiên Hưng làm Lệ Đức hầu, rước con út của Thái Tông Văn hoàng đế là Gia vương Lê Tư Thành lên ngôi, tức là hoàng đế Lê Thánh Tông.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Tháng 10 năm 1460, Tổng đốc Nguyễn Xí, Đông đốc Đinh Liệt tâu trình tên họ các quan trong các phiên, các quan ngự doanh và những người trước sau xướng nghĩa chém bọn nghịch thần Đồn, Ban. Nguyễn Đức Trung được xướng nghĩa cùng với 49 người khác, công hàng thứ 2.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Ngày 1/8/1461, con gái thứ hai của Nguyễn Đức Trung năm trước đó được tuyển vào làm Sung nghi ở cung Vĩnh Ninh sinh Hoàng trưởng tử Trang sinh (sau gọi là Hiến Tông). Năm 1467, Nguyễn Đức Trung lúc đó giữ chức Nam quân phủ đô đốc đồng tri được vua Lê Thánh Tông sai mang quân đi dẹp loạn ở vùng An Bang (Quảng Ninh), lại dụ cho Nguyễn Đức Trang tạm làm Trấn thủ An Bang.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Năm 1471, ông theo Lê Thánh Tông cầm quân bộ đi đánh Chiêm Thành, thắng lớn, mở rộng đất đai phía nam nước Đại Việt. Khi trở về ông được phong chức Thái uý, tước hiệu Trinh quốc công (貞國公), làm Đô ty thừa tuyên Quảng Nam. Năm 1472, vì tuổi già sức yếu, ông xin cáo lão về nghỉ. </div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tháng 8 âm lịch năm 1477, ông mất, thọ 73 tuổi. Mộ táng ở quê nhà.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: #0b5394;">Con đường </span></b></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Quảng Nam: nối Bùi Tấn Diên với Nguyễn Quý Đức - TP. Tam Kỳ</div><div style="text-align: justify;"><br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Tại Đà Nẵng: nối đường Trần Cao Vân với Điện Biên Phủ - quận Thanh Khê</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /><div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d3833.939338099049!2d108.18554211403425!3d16.06863738888124!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x314218ffb12d39f1%3A0xac0ded93ae52b63c!2zTmd1eeG7hW4gxJDhu6ljIFRydW5nLCBUaGFuaCBLaMOqLCDEkMOgIE7hurVuZywgVmnhu4d0IE5hbQ!5e0!3m2!1svi!2s!4v1633701501690!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe></div></div>
<div style="text-align: justify;"><b><span style="color: red;"><br /></span></b></div><div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: red;">Thiên Linh</span></b></div>
Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-9118728316928300490.post-64480338109895007902019-07-14T10:00:00.002+07:002021-10-16T20:04:20.175+07:00DNQTĐ: Lương Thế Vinh và Vũ Hữu <div style="text-align: justify;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiWjm2YYCm3mFoteOtgpnWPI4QAB9by5xCaVDd2BnNWm1Pxv6znHvPHvAkwF2QxASNwRmWtp2TFz95gv-i1IUb3bDGgUFrOUUySee8rA5Le85OGRkbYJ-h53hYpCO5xCPwuVCPwEDMydzA/s1600/Slide25.PNG" style="clear: right; float: right; margin-bottom: 1em; margin-left: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiWjm2YYCm3mFoteOtgpnWPI4QAB9by5xCaVDd2BnNWm1Pxv6znHvPHvAkwF2QxASNwRmWtp2TFz95gv-i1IUb3bDGgUFrOUUySee8rA5Le85OGRkbYJ-h53hYpCO5xCPwuVCPwEDMydzA/s320/Slide25.PNG" width="320" /></a><b><span style="color: #b45f06; font-size: large;">Lương Thế Vinh </span></b>- 梁 世 榮 (17/08/1441 – 02/10/1496), còn gọi là Trạng Lường, tên tự là Cảnh Nghị, tên hiệu là Thụy Hiên, là một nhà toán học, Phật học, nhà thơ Việt Nam thời Lê sơ. Ông đỗ trạng nguyên dưới triều Lê Thánh Tông và làm quan tại viện Hàn Lâm. Ông là một trong 28 nhà thơ của hội Tao Đàn do vua Lê Thánh Tông lập năm 1495.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Cuộc đời</span></b></div><div style="text-align: justify;"><br /></div>
<div style="text-align: justify;">
</div>
<div style="text-align: justify;">
Lương Thế Vinh sinh ngày 1 tháng 8 năm Tân Dậu (tức ngày 17 tháng 8 năm 1441) tại làng Cao Hương (nay là thôn Cao Phương, xã Liên Bảo, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định). Từ nhỏ Lương Thế Vinh đã nổi tiếng về khả năng học mau thuộc, nhanh hiểu, và khả năng sáng tạo trong các trò chơi như đá bóng, thả diều, câu cá, bẫy chim.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Năm 1463, Lương Thế Vinh đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ nhất danh (trạng nguyên) khoa Quý Mùi niên hiệu Quang Thuận thứ 4, đời Lê Thánh Tông. Vua Lê Thánh Tông ban tặng Cờ hoa Tam Khôi cho ba vị đỗ đầu. Các năm sau đó, ông làm quan với các chức Trực học sĩ, Thị thư và Chưởng viện sự ở viện Hàn lâm. Ông mất ngày 26 tháng 8 năm Bính Thìn (tức ngày 02 tháng 10 năm 1496) tại quê nhà, thọ 55 tuổi</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: #0b5394;">Tác phẩm</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: #0b5394;"><br /></span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
Lương Thế Vinh nổi tiếng với tài năng toán học. Quyển Đại thành toán pháp của ông được đưa vào chương trình thi cử suốt 450 năm trong lịch sử giáo dục Việt Nam. Ông cũng được xem là người chế ra bàn tính gẩy cho người Việt, lúc đầu làm bằng đất rồi bằng trúc, bằng gỗ, sơn màu khác nhau, đẹp và dễ tính, dễ nhớ.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Về toán học, Lương Thế Vinh đã để lại: <i><b>Đại thành Toán pháp, Khải minh Toán học</b></i></div><div style="text-align: justify;"><i><b><br /></b></i></div>
<div style="text-align: justify;">
Về lịch sử hát chèo: <b><i>Hý phường phả lục</i></b></div>
<div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">
Về Phật học: <i><b>Thiền môn Khoa giáo</b></i> (còn gọi là Thích điển Giáo khoa). <i><b>Bài tựa sách Nam Tông Tự Pháp Đồ</b></i> (sách lịch sử đạo Phật Việt Nam do thiền sư Thường Chiếu, tịch năm 1203, viết ra)</div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: #0b5394;"><br /></span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: #0b5394;">Con đường</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">Tại Hà Nội: nối đường Cương Kiên với Trần Phú – quận Nam Từ Liêm</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Đà Nẵng: nối đường An Hải với Ngô Quyền - Q. Sơn Trà</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Thừa Thiên Huế: nối đường Hoàng Hoa Thám với Hùng Vương - TP. Huế</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">
Tại TP. HCM: nối đường Tân Hoà Đông với Luỹ Bán Bích – quận Tân Phú</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div><span style="color: #0b5394;"><div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d3919.6427659840942!2d106.62905417270197!3d10.761990729941674!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x31752e9d68dd5d5f%3A0xaf86ac8613d41553!2zTMawxqFuZyBUaOG6vyBWaW5oLCBUw6JuIFRo4bubaSBIb8OgLCBUw6JuIFBow7osIFRow6BuaCBwaOG7kSBI4buTIENow60gTWluaCwgVmnhu4d0IE5hbQ!5e0!3m2!1svi!2s!4v1633708029455!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe></div></span>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div><div style="text-align: justify;"><br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<div>
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgBOMLL2gXx8kWAMvDRdb9J5TNWmXez8Mw-btGW0IxpBd6OyDx7_JJ2VKLDQoMYqz0zHgwkdgpDIJ1OZtG0QGP5YJ7ZQdomgw-ZVrvpf2RMcAEMtXsQ2bxVVYBwYNL58CeBDKPmWRaYxTs/s1600/Slide26.PNG" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgBOMLL2gXx8kWAMvDRdb9J5TNWmXez8Mw-btGW0IxpBd6OyDx7_JJ2VKLDQoMYqz0zHgwkdgpDIJ1OZtG0QGP5YJ7ZQdomgw-ZVrvpf2RMcAEMtXsQ2bxVVYBwYNL58CeBDKPmWRaYxTs/s320/Slide26.PNG" width="320" /></a><b><span style="color: #274e13; font-size: large;">Vũ Hữu</span></b> - 武有 (1437–1530) là một nhà toán học người Việt, và cũng là một danh thần dưới triều đại Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông. Ông còn được coi là nhà toán học đầu tiên của Việt Nam.</div><div><br /></div><div><span style="color: #0b5394;"><b>Cuộc đời</b></span></div>
<div>
<br /></div>
<div>
Ông người làng Mộ Trạch (nay là làng Mộ Trạch, xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Năm 1463, ông đỗ Hoàng giáp. Năm 1467, ông đưa hối lộ trong cuộc thi khoa Hành từ, bị vua Lê Thánh Tông trách phạt</div>
<div>
<br /></div>
<div>
Vũ Hữu đã kinh qua các chức vụ như Khâm hình viện lang trung, Thượng thư bộ Hộ, Thượng thư bộ Lễ trong triều đình nhà Hậu Lê, sau được tặng phong Thái bảo. Mặc dù về hưu năm 70 tuổi, đển năm 90 tuổi (1527), ông vẫn được vua tin dùng, sai mang cờ tiết đi phong vương cho Mạc Đăng Dung. Khi đó ông có tước là Tùng Dương hầu.</div>
<div>
<br /></div>
<div>
Công trình toán học ông để lại cho hậu thế nổi bật là <b><i>Lập Thành Toán Pháp</i></b> (立 成 算 法). Sách này gồm cách đo ruộng, tính diện tích ruộng; hình vẽ các thửa ruộng có hình phức tạp và cách tính diện tích loại ruộng này; cách tính bằng bàn tính, bằng phép cửu chương, cửu quy; một số bài tính đố, có cho biết đáp số. Các phép đo ruộng đất được tính theo đơn vị mẫu, sào, thước (24 mét vuông) và tấc (1/10 thước).</div>
<div>
<br /></div>
<div>
Sách Công dư tiệp ký ghi lại câu chuyện sau: Vua Lê Thánh Tông muốn thử tài của Vũ Hữu, nên đã giao cho ông sửa chữa ba cửa Đoan Môn, Đại Hưng và Đông Hoa của thành Thăng Long. Tuân lệnh, Vũ Hữu dùng thước đo chiều cao, chiều dài, chiều rộng của các cửa thành và tính ra số gạch đá, vật liệu phải dùng. Kết quả là khi xây xong, đá không thừa một tấc, gạch không thiếu một viên, quy mô các cửa thành được sửa chữa không sai một ly, một tấc. Vua Lê Thánh Tông rất hài lòng đã ban chiếu khen thưởng Vũ Hữu.</div>
<div>
<br /></div>
<div>
<b><span style="color: #0b5394;">Con đường</span></b></div><div><br /></div><div>Tại Đà Nẵng: nối đường Ỷ Lan với Tiểu La - Q. Hải Châu</div><div><br /></div><div>Tại Khánh Hoà: nối đường Nguyễn Bặc với Phạm Văn Đồng - TP. Nha Trang</div><div><b><span style="color: #0b5394;"><br /></span></b></div>
<div>
Tại Hà Nội: nối đường Khuất Duy Tiến với Lương Thế Vinh – Q. Thanh Xuân</div>
<div>
<br /></div><div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d6264.537654318095!2d105.7947555925844!3d20.9959889859579!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x3135acba5c237547%3A0xa6004a4d0610d198!2zUC4gVsWpIEjhu691LCBUaGFuaCBYdcOibiBC4bqvYywgVGhhbmggWHXDom4sIEjDoCBO4buZaSwgVmnhu4d0IE5hbQ!5e0!3m2!1svi!2s!4v1633707977093!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe></div></div>
<div style="text-align: justify;"><b><span style="color: red;"><br /></span></b></div><div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: red;">Thiên Linh</span></b></div>
Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-9118728316928300490.post-49511511764561193022019-07-12T11:30:00.001+07:002021-10-15T23:19:10.613+07:00DNQTĐ: Đàm Văn Lễ và Nguyễn Sư Hồi<div style="text-align: justify;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgyezKRfdjTMWUXS38wyd9Q-1yZAuskAqien5hBGn-rGEXDbn1ZtANTh4abYEOFsvwTvkZ5wXgMkckBXJxa_MJYCSHx96GGfX8Jzhg7dT-Z40cBrY8uzr8EXT-mCJKqF_pUX3_ug1wKdn0/s1600/Slide23.PNG" style="clear: right; float: right; margin-bottom: 1em; margin-left: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgyezKRfdjTMWUXS38wyd9Q-1yZAuskAqien5hBGn-rGEXDbn1ZtANTh4abYEOFsvwTvkZ5wXgMkckBXJxa_MJYCSHx96GGfX8Jzhg7dT-Z40cBrY8uzr8EXT-mCJKqF_pUX3_ug1wKdn0/s320/Slide23.PNG" width="320" /></a><b><span style="color: #b45f06;"><span style="font-size: large;">Đàm Văn Lễ</span> </span></b>- 覃文禮, (1452 - 1505) là quan nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam.<br />
</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><span style="color: #0b5394;"><b>Cuộc đời</b></span></div><div style="text-align: justify;"><br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Đàm Văn Lễ tự là Hoằng Kính, người xã Lam Sơn, (nay là huyện Quế Võ, Bắc Ninh). Từ nhỏ ông đã nổi tiếng là thần đồng, thi Hương đỗ giải nguyên.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Năm 1469 đời Lê Thánh Tông, ông đi thi lần đầu đã đỗ Đồng tiến sĩ lúc 18 tuổi, được vào triều ban chức Hiệu lý Viện hàn lâm. Năm 1483 ông được thăng lên làm Thị thư Viện Hàn lâm, cùng Thân Nhân Trung tham gia soạn bộ Thiên Nam dư hạ tập. Năm 1488, ông làm chánh sứ sang Trung Quốc mừng vua Minh Hiến Tông mới lên ngôi. Khi trở về ông được thăng làm Phó ngự sử, làm giám khảo khoa thi Điện năm 1493. Sau đó ít lâu ông được thăng làm Thượng thư bộ Lễ kiêm đại học sĩ Đông các. Ông vâng mệnh soạn bài văn bia Chiêu lăng thần đạo.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Năm 1499, sứ nhà Minh sang sách phong cho vua Lê Hiến Tông mới lên ngôi, ông ra đón tiếp và cùng bàn việc lễ nghi. Ông được Hiến Tông phong kiêm chức Tả xuân phường hữu dụ đức. Năm 1504, Lê Hiến Tông bệnh nặng. Nguyễn Kính phi là mẹ hoàng tử Lê Tuấn muốn con mình thay thái tử Thuần, nên mang vàng hối hộ ông. Đàm Văn Lễ không nhận rồi cùng Ngự sử Nguyễn Công Bật lập thái tử Thuần làm vua, tức là vua Lê Túc Tông. Lê Túc Tông yểu mệnh chỉ làm vua nửa năm thì qua đời cuối năm 1504. Lê Tuấn được lập lên ngôi, tức là vua Lê Uy Mục. Uy Mục thù Đàm Văn Lễ không ủng hộ mình làm vua, bèn giáng ông ra làm quan ở thừa tuyên Quảng Nam. Khi Đàm Văn Lễ đi đến sông Chân Phúc, vua Uy Mục sai người đuổi theo ép ông tự sát. Ông gieo mình xuống sông chết, năm đó 54 tuổi. Sau này Lê Tương Dực khởi binh lật đổ Uy Mục đã truy phong và tế ông để nêu gương tiết nghĩa.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: #0b5394;">Con đường</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: #0b5394;"><br /></span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
Tại tph. HCM: nối đường Nguyễn Khoa Đăng với Trương Gia Mô – quận 2</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Tại Đà Nẵng: nối đường Lê Thạch với Nguyễn Huy Tưởng – quận Cẩm Lệ</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Tại Nghệ An: nối đường Nguyễn Xí với Trần Quang Diệu – tph. Vinh</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d2330.5639185882183!2d106.76760687384687!3d10.77099082668537!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x317525ccf3d4d5cb%3A0xe0ad594e1c9718ae!2zxJDGsOG7nW5nIMSQw6BtIFbEg24gTOG7hSwgVGjhuqFuaCBN4bu5IEzhu6NpLCBRdeG6rW4gMiwgVGjDoG5oIHBo4buRIEjhu5MgQ2jDrSBNaW5oLCBWaeG7h3QgTmFt!5e0!3m2!1svi!2s!4v1634314688815!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe></div><div style="text-align: center;"><br /></div><div style="text-align: center;"><br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjmCUPqZk6Lyvr1F2BTX9xpEekxmvdUUsmnN_xdUzY5Sr3LFSFtMeyd1B6Ea2QJevIIn5dMAB5IN7t6CpasJoXBwgr8RPBzINilTNnwhmUL1urtImwYES7gOnpjQxHl_p3aSnf3ACEjHxw/s1600/Slide24.PNG" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjmCUPqZk6Lyvr1F2BTX9xpEekxmvdUUsmnN_xdUzY5Sr3LFSFtMeyd1B6Ea2QJevIIn5dMAB5IN7t6CpasJoXBwgr8RPBzINilTNnwhmUL1urtImwYES7gOnpjQxHl_p3aSnf3ACEjHxw/s320/Slide24.PNG" width="320" /></a><b><span style="color: #b45f06; font-size: large;">Nguyễn Sư Hồi</span></b> - 阮師回 (12/06/1444 - 1506) là một đại thần thời Lê, con trai của công thần Nguyễn Xí. Ông từng giữ chức vụ chỉ huy lực lượng thủy quân Đại Việt ở phía Nam, có công lớn trong việc khai hoang lập ấp, giữ vững biên cương, được tôn làm Thành hoàng làng Vạn Lộc (nay là phường Nghi Tân, Thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An). Ông bị cho là tội đồ trong vụ án thơ năm Quang Thuận thứ 3 (1462), vu cáo 4 đại thần bấy giờ là Lê Niệm, Nguyễn Lỗi, Lê Thọ Vực, Trịnh Văn Sái, làm chấn động triều đình lúc bấy giờ</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Cuộc đời</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Theo tài liệu, Nguyễn Sư Hồi nguyên tên là <b>Đình Khôi</b>, do thân phụ được ban quốc tính nên sử có lúc chép tên là Lê Sư Hồi, sinh ngày 26 tháng 5 năm 1444 âm lịch, triều vua Lê Nhân Tông, nguyên quán làng Thượng Xá, (nay là xã Nghi Hợp, Nghi Lộc, Nghệ An). Thân phụ ông là công thần khai quốc Nguyễn Xí, lão thần qua mấy triều vua. Tương truyền, từ nhỏ ông đã biểu lộ tư chất thông minh nhanh nhẹn, khi trưởng thành giỏi cả văn lẫn võ. </div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Trong cuộc binh biến năm 1460, ông được cho là đã phụ tá đắc lực cho cha trong việc chỉ huy cấm binh lật đổ Lê Nghi Dân, phò tá Gia vương Lê Tư Thành lên ngôi. Chính sử không ghi chép rõ về quan lộ của Sư Hồi. Lê Thánh Tông luận công ban thưởng, ban ruộng thế nghiệp cho một số công thần. Nguyễn Sư Hồi và Lê Nhân Khoái mỗi người 130 mẫu; từ Trịnh Văn Sái trở xuống 22 người đều được cấp ruộng nhiều ít khác nhau. Ông tuy được phong chức Tả đô đốc, nhưng chưa được ban cho quốc tính</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Vào khoảng tháng 3, 1462, một bài thơ tứ tuyệt nặc danh rơi trên phố được tìm thấy với nội dung như sau:</div>
<div style="text-align: center;">
Nhân hữu nhị tâm vưu khả nghi,</div>
<div style="text-align: center;">
Tự lai chung cánh hiếu vi phi.</div>
<div style="text-align: center;">
Thổ biên hữu hoặc chân dung bạo,</div>
<div style="text-align: center;">
Thủy tại tây bàng xã tắc nguy.</div>
<div style="text-align: center;">
Tạm dịch</div>
<div style="text-align: center;">
<i>Người có hai lòng rất đáng nghi,</i></div>
<div style="text-align: center;">
<i>Giống chữ "lai" đó thích vi phi.</i></div>
<div style="text-align: center;">
<i>Bên "thổ" có "hoặc" thực hung bạo,</i></div>
<div style="text-align: center;">
<i>"Thủy" sát bên "tây" xã tắc nguy.</i></div>
<div style="text-align: justify;">
Triều đều định tội cho Sư Hồi là tác giả bài thơ và định cho ông tội chết. Tuy nhiên vua Lê Thánh Tông xét công cha con ông nên đã tha ông tội chết và phủ dụ các đại thần, cho rằng không đủ bằng chứng để kết tội ông là tác giả bài thơ trên, cũng như nội dung bài thơ không có ý phản nghịch. Chính sử đều ghi chép ông vì xung đột với các đại thần trên nên mới làm bài thơ vứt ra đường nhưng chưa kịp lưu truyền thì bị phát giác. Tháng Chạp âm lịch, năm 1463, vua ra dụ trách cha con ông về tội ăn của đút lót. </div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Năm 1469, ông được giao chỉ huy lực lượng thủy quân làm nhiệm vụ bảo vệ vùng biển phía Nam Đại Việt, gồm 12 cửa lạch (Thập nhị hải môn) kéo dài từ cửa biển Sầm Sơn (Thanh Hóa) vào đến Cửa Tùng (Quảng Trị). Khi vào trấn nhậm, ông đã chọn vùng cửa Xá cạnh làng Thượng Xá quê hương làm đại bản doanh. Ông cũng cho xây dựng một tuyến phòng thủ ven biển dài từ mũi Gươm đến đồn tiền tiêu nhằm phóng giữ các cuộc tấn công của quân Chiêm Thành. Ông cũng quan tâm phát triển kinh tế, chiêu tập dân cư, dùng các tù binh để khai phát đất đai, đắp đê ngăn mặn, khai hoang lập ấp, lập nên làng Vạn Lộc.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Theo thần phả, ông qua đời ngày 21/05/1506 âm lịch, triều vua Lê Túc Tông, tại vùng Cửa Xá. Theo Thần phả đền Vạn Lộc, ông được truy phong tước "Thái bảo phò mã đô úy tham dự triều chính". Sau khi ông qua đời, nhân dân trong vùng ghi nhớ công ơn mà lập đền thờ và tôn ông làm Thành hoàng. Trải qua thăng trầm, đền thờ ông được dời đến vùng đất cạnh sông Cấm như ngày nay. </div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: #0b5394;">Con đường</span></b></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;"><br /></span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
Tại Nghệ An: nối đường Nguyễn Chí Thanh với Đặng Thai Mai – tph. Vinh</div><div style="text-align: justify;"><br /></div>
<div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d12711.279676971926!2d105.64780845023493!3d18.704964921810397!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x3139ce2ec4dc1545%3A0xb0ddfdc0da3db9a1!2zTmd1eeG7hW4gU8awIEjhu5NpLCBIxrBuZyDEkMO0bmcsIFRwLiBWaW5oLCBOZ2jhu4cgQW4sIFZp4buHdCBOYW0!5e0!3m2!1svi!2s!4v1634314647703!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe>
<br /></div><div style="text-align: center;"><br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: red;">Thiên Linh</span></b></div>
Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-9118728316928300490.post-36738900915928349782019-07-10T18:00:00.001+07:002021-10-15T23:46:22.589+07:00DNQTĐ: Lê Tung và Lê Hy <div style="text-align: justify;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjwDK2BZjprRQ5nHGlukDZMgVzZWML2JZ4JzCd2-E1qWmAO1u1e3kt0PsGJYdxTp9Xn-9uVexK_Nr7w9hTthnhtBH8izgDcF5qchHWLLHtH9U8VRITMqJFMGc08JvUoUgmZDekmrHD5RyE/s1600/Slide21.PNG" style="clear: right; float: right; margin-bottom: 1em; margin-left: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjwDK2BZjprRQ5nHGlukDZMgVzZWML2JZ4JzCd2-E1qWmAO1u1e3kt0PsGJYdxTp9Xn-9uVexK_Nr7w9hTthnhtBH8izgDcF5qchHWLLHtH9U8VRITMqJFMGc08JvUoUgmZDekmrHD5RyE/s320/Slide21.PNG" width="320" /></a><b><span style="color: #b45f06; font-size: large;">Lê Tung</span></b> (? - ?) là một vị quan nhà Lê sơ dưới thời các vua Lê Thánh Tông, Lê Tương Dực và đồng thời cũng là một trong các tác giả của bộ quốc sử Việt Nam, bộ Đại Việt sử ký toàn thư. </div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Cuộc đời</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Ông quê ở làng Yên Cừ, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Tên thật là <b>Dương Bang Bản</b>, sau vì có nhiều công lao nên được vua Lê ban họ vua và đổi tên Tung nên sử sách đều chép là Lê Tung. </div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Năm 1484, ông đỗ tiến sĩ dưới thời vua Lê Thánh Tông. Dưới thới vua Lê Tương Dực ông giữ chức Thiếu bảo bộ Lễ Thượng thư, Đông các Đại học sĩ kiêm Quốc tử giám tế tửu</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Dựa trên cơ sở của bộ Đại Việt thông giám thông khảo của Vũ Quỳnh soạn trước đó, vào năm 1514 vua Lê Tương Dực sai ông soạn bài <i><b>Đại Việt thông giám tổng luận</b></i>. Bài tổng luận của Lê Tung sau này được các soạn giả của bộ ĐVSKTT đưa toàn bộ vào phần đầu của bộ quốc sử. Mặc dù Lê Tung không tham gia trực tiếp vào việc chỉnh lý, biên soạn bộ ĐVSKTT nhưng với bài Đại Việt thông giám tổng luận cũng đã góp phần vào nội dung phần mở đầu của bộ quốc sử và qua bài tổng luận đó của ông đã tóm lược một cách khái quát những quan điểm sử học của Vũ Quỳnh trong bộ Đại Việt thông giám mà các sử thần đời sau vận dụng vào việc hoàn thành bộ ĐVSKTT</div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: #0b5394;"><br /></span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: #0b5394;">Con đường</span></b></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;"><br /></span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
Tại tp. HCM: nối đường Tuệ Tĩnh với Lê Đại Hành – quận 11</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div><div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d1346.3412467575306!2d106.65428973919731!3d10.764370758453587!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x31752eec9de2fca3%3A0x2ea312557ed898f7!2zTMOqIFR1bmcsIHBoxrDhu51uZyAxMywgUXXhuq1uIDExLCBUaMOgbmggcGjhu5EgSOG7kyBDaMOtIE1pbmgsIFZp4buHdCBOYW0!5e0!3m2!1svi!2s!4v1634316316455!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe></div><div style="text-align: center;"><br /></div><div style="text-align: center;"><br /></div><div style="text-align: justify;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjs64nrRskauE_Loo28uqu__KoMxxjMYzGyaMxjkJjs-7QLcqjy8X9TaI2fQtoTSExFCumYGRrqXFiAWpSWI-nCr-DrDddFyZViuSbGZ2sHGzUpCFTTGJh4uqZM_bKY1dzsV3nw_YyGPgE/s1600/Slide22.PNG" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjs64nrRskauE_Loo28uqu__KoMxxjMYzGyaMxjkJjs-7QLcqjy8X9TaI2fQtoTSExFCumYGRrqXFiAWpSWI-nCr-DrDddFyZViuSbGZ2sHGzUpCFTTGJh4uqZM_bKY1dzsV3nw_YyGPgE/s320/Slide22.PNG" width="320" /></a><b><span style="color: #b45f06; font-size: large;">Lê Hy</span></b> (1646-1702) là danh sĩ đời vua Lê Huyền Tông, hiệu Trạm Khê, quê tổng Thạch Khê, huyện Đông Sơn, (nay là thôn Thạch Khê, xã Đông Khê, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa)</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Cuộc đời</span></b></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Năm 1664 Giáp Thìn, 18 tuổi ông đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân, làm quan đến chức Thượng thư bộ Binh, rồi thăng Tham tụng, trông coi cả Trung thủ giám tước Lai Sơn Bá. Ông đã từng đi sứ sang nhà Thanh. Có lần làm thơ tiễn Đặng Đình Tướng đi sứ.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Khoảng năm 1697, ông nhận lệnh của Lê Hy Tông và Chúa Định Nam Vương Trịnh Căn soạn bộ Đ<b><i>ại Việt sử ký bản tục biên</i></b>, biên soạn từ đời Lê Huyền Tông đến Lê Gia Tông và viết tựa cho sách ấy.</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
Ông mất năm 1702.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="color: #0b5394;">Con đường </span></b></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Thanh Hoá: từ đường Lê Thế Lân đến hết đường - Đông Sơn </div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Tại Đà Nẵng: nối đường Phạm Vinh với Trần Văn Lan - Q. Cẩm Lệ</div><div style="text-align: justify;"><br /></div>
<div style="text-align: center;"><iframe allowfullscreen="" height="450" loading="lazy" src="https://www.google.com/maps/embed?pb=!1m18!1m12!1m3!1d2280.3997587991075!2d108.19533728054367!3d16.00518618548049!2m3!1f0!2f0!3f0!3m2!1i1024!2i768!4f13.1!3m3!1m2!1s0x31421a3159460f4f%3A0xb34028c94ce0d924!2zTMOqIEh5LCBD4bqpbSBM4buHLCDEkMOgIE7hurVuZyA1NTAwMDAsIFZp4buHdCBOYW0!5e0!3m2!1svi!2s!4v1634316019809!5m2!1svi!2s" style="border: 0;" width="600"></iframe>
<br /></div><div style="text-align: center;"><br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<b><span style="color: red;">Thiên Linh</span></b></div>
Unknownnoreply@blogger.com0